Xu Hướng 9/2023 # Nhìn Ngắm Hán Phục Trong Các Triều Đại Trung Hoa Xưa # Top 16 Xem Nhiều | Xqai.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Nhìn Ngắm Hán Phục Trong Các Triều Đại Trung Hoa Xưa # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Nhìn Ngắm Hán Phục Trong Các Triều Đại Trung Hoa Xưa được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Xqai.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hiện nay, Hán Phục không xuất hiện trên các tuyến đường, con phố mà người ta chỉ có thể bắt gặp nó tại các viện bảo tàng hay một vài sự kiện văn hóa tiêu biểu vùng miền ở Trung Quốc.

1. Hanfu là quần áo truyền thống của người Hán trong thế kỷ 17. Nó tồn tại gần 4000 năm từ Thời Cổ đại hoàng đế (khoảng 21 thế kỷ trước) đến nhà Minh (giữa thế kỷ 17). Hanfu là quốc phục có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới. Hanfu được coi là một phần rất quan trọng của văn hóa của Trung Quốc. Cách ăn mặc Hanfu thích hợp là một phần quan trọng của sự lịch thiệp và trang trọng trong mọi thời đại.

Chủ yếu, có ba biến thể của Hanfu:

Pienfu: váy (quần) và áo, bao gồm một áo kéo dài đến đầu gối mặc cùng với váy hoặc quần dài đến mắt cá chân.

Changpao (Daofao): Đây là trang phục một mảnh áo dài đến mắt cá chân.

Shenyi: Một sự kết hợp 2 loại trên, trang phục quần / váy đã được may lại với nhau để làm một bộ quần áo một mảnh.

Shenyi là loại phổ biến nhất trong 3 loại. Tay áo rộng và cồng kềnh và rất lỏng lẻo. Áo và quần hoặc áo và váy, sử dụng một số lượng rất tối thiểu các mũi khâu cho lượng vải sử dụng. Vì vậy, thiết kế cấu trúc tương đối đơn giản và viền thêu, bọc vải hoặc lụa tơ tằm, hoa văn trên vai, và đai thường được thêm vào như là trang trí. Những thiết kế đa dạng là một trong những tính năng độc đáo của trang phục truyền thống Trung Quốc.

2. Sau khi thống nhất đồng bằng Bắc Trung Quốc năm 2697 trước Công nguyên. Trung Quốc là một quốc gia thịnh vượng với chính trị ổn định và văn hóa tiên tiến. Vợ hoàng đế, là người đầu tiên biết nuôi dệt tơ tằm, từ đó quần áo được dệt thành. Lúc đầu, người mặc quần áo vải lanh dệt. Quần áo bấy giờ chủ yếu là áo choàng. Trong khi phụ nữ mặc áo choàng dài đến mặt đất, đàn ông mặc áo choàng đến đầu gối. Tay áo rộng, với đai được thêm vào như đồ trang trí. Màu tối hơn được ưa thích hơn những màu sáng. Trang phục đó được gọi là Hanfu, trải qua nhiều triều đại khác nhau Hanfu cũng có rất nhiều thay đổi.

* Hạ, Thương, Chu

Theo khám phá khảo cổ học, hình dạng và phong cách cơ bản của Hanfu đã phát triển gần như hoàn chỉnh trong suốt triều đại nhà Thương (thế kỷ 16 – thế kỷ 11 TCN). Quần áo thời kỳ này chủ yếu gồm hai phần Yi (Y,áo) và Shang (xiêm,váy). Vòng tay áo hẹp, Yi không có nút và được cố định với một đai rộng buộc quanh thắt lưng. Đai có 2 loại: 1 là thân từ tơ lụa chế thành, 2 là cách đới từ da chế thành. Mọi người khi mặc thường đeo thêm 1 miếng ngọc bội. Phát hiện khảo cổ học cho thấy loại vải trong giai đoạn này chủ yếu là ở màu sắc ấm áp, đặc biệt là màu vàng, đỏ, nâu. Cũng có màu lạnh như màu xanh, màu xanh lá cây. Các màu sắc cơ bản như đỏ, vàng thường được dùng để vẽ lên các loại vải sau khi dệt.

Đời nhà Chu Hanfu mặc theo hình thức và phong cách của triều đại nhà Thương, với một vài thay đổi. Quần áo rộng hơn một chút so với triều đại nhà Thương. Có hai loại phong cách tay áo rộng và hẹp. Cổ áo đã vượt qua và gắn liền với quyền, được gọi là “Jiaoling Youren”. Chiều dài của váy và quần dài thay đổi đến đầu gối xuống đất.

* Chiến Quốc

Thời này xuất hiện một trang phục là shenyi . Shenyi là một loại có độ dài một mảnh, liên kết các Yi và Shang với nhau để bọc cơ thể. Chúng thay đổi kiểu phục trang trong quá khứ trước sau bên trái được đính lại, phía sau của vạt áo được kéo dài ra, sau khi kéo dài vạt áo sẽ có hình tam giác, khi mặc vào sẽ quấn từ sau lưng ra đến giữa eo. Shenyi tiếp tục là đặc trưng của kiểu Jiaoling Youren và thực hiện một tác động lớn đến xã hội. Mọi người đều có thể mặc nó không phân biệt giới tính, nghề nghiệp hay tầng lớp xã hội. Trong thời gian này, các kỹ thuật dệt và nhuộm đã rất tiên tiến, những mô hình phức tạp và tráng lệ đã xuất hiện trên Hanfu.

* Tần, Hán triều

Tần Hoàng đế, người bị ảnh hưởng bởi khái niệm lý thuyết của ngũ hành. Màu sắc yêu thích của nhà Tần là đen, vì màu đen là màu tượng trưng cho nước, nên quần áo và trang sức tất cả là màu đen. Quần áo với màu tối không chỉ dành cho đàn ông mà cũng rất phổ biến ở phụ nữ.

Trong triều đại nhà Hán, phụ nữ mặc chiếc áo khoác ngắn và váy dài, và một vành đai trang trí treo xuống đến đầu gối, đàn ông luôn mặc một chiếc áo khoác ngắn, quần dài theo phong cách mũi bê, với một chiếc váy vải ngắn bên ngoài. Trang sức của phụ nữ bao gồm bông tai vàng, vòng bạc, và vòng đeo tay. Có sự khác biệt lớn về chất lượng các phụ kiện của phụ nữ bên trong và bên ngoài cung điện. Tất cả các sản phẩm may mặc được gọi chung là Chanyi. Kiểu dáng thường gặp là shenyi, nam hay nữ vẫn mặc được. Áo dài tay có 2 kiểu rộng hẹp, ống tay có viền, cổ áo thường là cổ chéo, miệng cổ thấp để lộ áo bên trong. Cách duy nhất để biết thứ hạng của một người hoặc vị trí trong xã hội là bởi màu sắc và chất lượng của quần áo của mình – không có sự khác biệt trong phong cách của quần áo được mặc bởi các quan chức chính phủ và người dân bình thường. Quan chức mặc màu đỏ và màu tím, màu trắng là cho những người bình thường. Quần áo phải sử dụng tấm vải trắng lót, chiều rộng của tay áo là 0,4m, áo đã không có tay áo, người mang quần áo lông thú có lông phải đối mặt với bên ngoài, dây thắt lưng rất tinh tế.

* Nam và Bắc triều

Cơ bản vẫn như thời trang Tần và Hán. Phục sức cửa phụ nữ tiếp thu nét đặc sắc của dân tộc thiểu số, cải tiến từ truyền thống. Phía trên có áo lót, áo khoác, áo ngắn, bên dưới là áo chùng, quần áo bó chặt toàn thân, ống tay áo rộng, áo chùng nhiều nếp gấp, áo chùng dài quét đất tỏa rộng. Trang phục trong triều đại Nam (386-589) chủ yếu là áo khoác ngắn và váy. Đặc biệt phụ nữ trong chiếc váy được coi là chính thống, và những người mặc quần được coi là bất lịch sự, quần được ưa chuộng bởi giới trẻ. Quần áo ở phía Nam của sông Dương Tử nhỏ hơn và ngắn hơn ở phía Bắc.

* Tùy Đường

Trong thời kỳ nhà Tùy và đầu nhà Đường, quần áo phụ nữ là những chiếc áo khoác ngắn với tay áo nhỏ, dưới váy hẹp, đai thắt cao thường ở trên thắt lưng, một số thậm chí gắn liền với cánh tay, đưa ra một cảm giác khá thanh mảnh. Banbi là một chiếc áo khoác ngắn. Phụ nữ thường dùng tơ lụa độ dài trên 2m, vắt qua vai luồn qua giữa 2 cánh tay. Khi đi lại lụa bay theo tạo cảm giác mềm mại, rất đẹp. Trang phục của phụ nữ bao gồm áo ngắn tay, áo và váy dài hoặc một chiếc áo tay rộng, váy dài, và một khăn choàng. Sau khi triều đại nhà Đường thịnh vượng, tay áo trở nên lỏng hơn và lớn hơn.

Trong triều đại nhà Đường, chất lượng và số lượng các trang trí trên vành đai được sử dụng để chỉ ra thứ hạng của các quan chức chính phủ. Ví dụ, quan chức xếp lục phẩm đeo một thanh kiếm, dao, quan chức và tướng lĩnh xếp hạng ngũ phẩm đeo thắt lưng ngọc bích, các quan chức xếp tam phẩm, tứ phẩm đeo thắt lưng vàng, và các quan chức nhất phẩm, nhị phẩm đeo thắt lưng bạch kim . Trong khi đó, những người bình thường chỉ có thể đeo một đồng nhỏ hoặc dao sắt.

* Triều đại nhà Tống

Quần áo thời nhà Tống có thể được chia thành ba loại phong cách. Một trong số đó là cho các hoàng hậu, phi tần cao quý, và con cái của các quan chức, một phong cách cho những người bình thường và một phong cách để sử dụng hàng ngày. Phục trang của phụ nữ Nam Tống không còn dựa trên kiểu dáng rộng dài của chế độ Bắc Tống cũ, mà phát triển theo dạng áo chùng dài, áo ngắn. Cả bộ phục trang được chế từ 6 loại gấm lụa, vải lụa thưa, là phục trang cho mùa hè. Kiểu dáng tà áo rất đặc sắc, lật 1 tầng tà áo còn có 1 vạt áo khác, 2 bên tà áo 1 trái 1 phải, tà lớn được thắt lại, 2 bên tà trái phải đối xứng, dung khuy đính lại vào 2 bên.

* Triều đại nhà Nguyên

Trong triều Nguyên, “Zhi” được phổ biến. Tất cả các quan chức đều mặc để tham dự lễ trong cung điện. Phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc có phong cách ăn mặc riêng của họ. Các quý tộc người Mông Cổ mặc áo khoác da và mũ dân tộc của họ. Phụ nữ chủ yếu mặc áo dài, lỏng lẻo với tay áo rộng. Bởi vì áo quá dài, họ kéo lê trên mặt đất, vì vậy phụ nữ quý tộc có người giúp việc đi cùng để chăm sóc cho quần áo. Áo, thường được làm từ thổ cẩm thêu màu đỏ và vàng, lụa, lông thú và len dệt. Quần áo dệt rất nhiều vàng. Trong quá khứ, vải dệt với vàng, đã xuất hiện trước khi nhà Tần sớm, cho đến sau khi triều Bắc và Nam, văn hóa dệt váy vàng đã được phổ biến toàn quốc.

* Triều đại nhà Minh

Quần áo vẫn giữ các nét cơ bản, chủ yếu là bắt chước nhà Đường và Tống, thường là bên phải là đường giao nhau, nhưng hấp thụ một số đặc điểm quần áo thời nhà Nguyên.

Thời nhà Minh quần áo phụ nữ trên ba cổ áo với tay áo hẹp. Chiều cao cổ áo lớn. Phục trang phụ nữ triều Minh chủ yếu lấy phần cổ đối với vạt làm chủ đạo, hai tà chia ra không may liền vào nhau, cũng không thêm khuy, tay áo có thể rộng hoặc hẹp. Độ dài y phục cũng có thể daì trên đầu gối, phủ gối hoặc dài tới hết chân. Phục sức nam giới dưới thời nhà Minh là Đa hộ (thuộc vào y phục nửa cánh tay), thân thẳng và đạo bào (tương tự như áo dài rộng) trình tử y, khố chấp. Váy xếp li rất phổ biến, chủ yếu là váy trắng, mẫu thêu. Kích thước của các nếp gấp dao động từ nhỏ và gần lớn và rộng. Một loại váy có 24 nếp gấp và được đặt tên là “váy ngọc bích” Nam giới thường mặc một chiếc áo choàng một chiếc khăn vuông và cổ áo hình tròn. May mặc này đặc trưng có tay áo rộng, cạnh màu đen, cổ tròn màu xanh, và khăn xếp đen dây băng mềm treo vành đai. Người lao động mặc quần vải, màu đen. Họ cũng đeo khăn tay vải và áo khoác dài màu đen với viền rộng. Giày màu đỏ tươi là thời trang điển hình.

* Triều đại nhà Thanh (Thời nhà Thanh đã bắt đầu với mianfu = Mãn phục)

Hanfu biến mất vào đầu của triều đại nhà Thanh (1644-1911). Triều đại nhà Thanh được thành lập không phải bởi đại đa số người Hán, mà là người Mãn Châu. Ngay sau khi tiếp quản Trung Quốc người Mãn Châu buộc đàn ông người Hán áp dụng kiểu tóc Mãn Châu (Pigtail) và mặc quần áo người Mãn Châu. Hanfu được thay thế bằng phong cách quần áo, kiểu tóc Mãn Châu và biến mất chỉ trong vòng một thế kỷ của nhà Thanh cai trị.

Quần áo với tay áo ngắn hẹp là phương thức phổ biến của trang phục trong nhà Thanh. Các phong cách thanh mảnh và hình chữ nhật, được cắt thẳng từ trên xuống dưới và không có thắt lưng. Nút được đặt trên mặt trước, bên phải là trang trí. Hàng may mặc thường được trang trí với thiết kế thêu, quần áo bao gồm quần áo thêm áo khoác và áo choàng dài. Áo choàng Qi (Trung Quốc cheongsam) và quần áo ngắn có hình dạng của một pa pi (một nhạc cụ Trung Quốc) phía trước song song,…

Phụ nữ nhà Thanh có quần áo riêng cho những dịp quan trọng, thường ngày và kinh doanh. Phụ nữ bình thường mặc chiếc áo choàng, váy áo. Áo choàng phụ nữ của nhà Thanh, quần áo đàn ông với hình thức các nút xuống phía trước, tay áo lớn, dài dưới đầu gối. Cùng với áo dài với một số được trang trí bằng ren và chiếc quần váy, quần, do sự phổ biến của quần dài, phụ nữ mặc váy dần dần hiếm.

3. Hán Phục dần dần bị biến mất vào triều đại nhà Thanh. Cho đến năm 2003, khi thời đại của công nghệ phát triển vượt bậc, thì thế hệ trẻ ngày nay đã hồi sinh trang phục truyền thống này thông qua các trang mạng xã hội truyền thông. Mặc dù vậy, chi phí để đưa Hán Phục quay trở lại khá là cao và có nhiều cuộc tranh luận bất đồng ý kiến về quan điểm “Thế nào là một Hán Phục tiêu chuẩn”. Bên cạnh đó, họ đem trang phục này trở lại là vì trào lưu chụp ảnh nghệ thuật. Còn việc diện chúng đi ra ngoài đường thì có lẽ chỉ xuất hiện trong các dịp tết, ngày lễ.

4. Kimono và Hanbok là hai trang phục nổi tiếng trên thế giới, được lấy cảm hứng từ Hán Phục. Vì thế, nhìn chúng mới có nhiều điểm giống nhau đến vậy. Cụ thể hơn, Kimono được phát triển từ trang phục của triều đại nhà Đường, còn Hanbok thì lại được phát triển từ trang phục trong thời kỳ nhà Minh.

Đăng bởi: Lê Thị Tố Trinh

Từ khoá: Nhìn ngắm Hán Phục trong các triều đại Trung Hoa xưa

Phân Vị Phi Tần Trong Hậu Cung Nhà Thanh Trung Hoa Xưa

PHẨM PHỤC DÀNH CHO HẬU PHI NHÀ THANH

Đối với một hậu phi nhà Thanh, trang phục vào dịp sắc phong hoặc đại lễ luôn được yêu cầu, không chỉ thể hiện vinh quang của nhà Thanh, mà còn thể hiện địa vị của vị phi tần đó. Theo quy định nhà Thanh, một lễ phục cơ bản của hậu phi là: Triều quan, Kim ước, Nhị ước, Lãnh ước, Triều châu, Thải thuế, Triều quái, Triều bào, Triều váy cùng Triều ủng.

Chủ yếu quần áo từ ngoài vào trong, phân biệt là: Triều quái, Triều bào và Triều váy 3 thứ. Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều giống nhau, đơn giản vì danh xưng Thái hậu ý chỉ “Hoàng hậu của Tiên đế” nên trang phục cùng Hoàng hậu đồng dạng. Xuống dưới tần phi tước Tần trở lên và mệnh phụ cấp cao mới cùng giống, và cũng chỉ có Tần trở lên mới có Triều quái, Triều bào, Triều quan mà thôi.

1. Triều phục

* Triều quái: là một loại áo khoác mặc bên ngoài Triều bào ở dưới Phi lĩnh. Theo Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ ghi lại thì: “Sắc dùng thanh, trường vạt vô mệ, dệt kim long văn, dệt kim lụa hoặc dệt kim lụa nạm biên”.

Triều quái không có tay áo, cân vạt và dài. Loại áo này có cơ bản 4 thể, loại đầu tiên có thể thấy trên tranh vẽ Hiếu Kính Hiến hoàng hậu của Ung Chính Đế và một số tranh hậu phi đời trước, đều cùng một loại mẫu để vẽ. Thể thức này tay áo màu lam, vạt áo xẻ tà đằng trước, viền áo nạm kim, trước ngực là một hình rồng chính long, vạt áo có 2 hành long, phía dưới vạt áo có thể thức bát bảo bình thủy. Có thể tạm xem đây là thể thức thời Khang-Ung thường dùng, vì bức họa các vị Hoàng hậu trở ra trước đều như vậy.

Một số hình vẽ mệnh phụ thời gian này cũng có hình thức Triều quái tương tự như vậy. Loại thức này chính thức sang thời Càn Long trung kỳ bị bãi bỏ. Thời kỳ này, triều đình quy định Triều quái Hoàng hậu dùng màu xanh, trước sau là 2 hình đại lập long. Cứ theo “Khâm định cung trung hiện hành tắc lệ” thời Càn Long ghi lại: “Triều quái, sắc dùng xanh đá, phiến kim duyên, thêu văn trước sau lập long các nhị”. Phía dưới, Hoàng tử Phúc tấn đến Huyện chúa đều dùng thức trước 4 sau 3 hình rồng.

Một loại Triều quái khác, gọi là “Hữu điệp triều quái” (dạng triều quái có tầng khúc). Loại này ở phần ngực trước sau thêu 2 hình lập long, phía dưới chia ra 4 tầng, hàng 1 và 3 thêu hành long, hàng 2 và 4 thêu vạn phúc vạn thọ đồ hình cùng với mây tía giao nhau. Loại này chỉ có tần phi trở lên dùng. Năm Càn Long thứ 36, Thanh Cao Tông vì Sùng Khánh Thái hậu vạn thọ mà ở Từ Ninh cung cử hành vạn thọ tiết, trong dịp này có “Từ Ninh yến hỉ đồ” thể hiện tần phi trong điện đều vận dạng này Triều quái.

Còn một loại Triều quái, thể hiện từ sau thời Càn Long trở đi. Cơ bản cũng là dạng 2 hình lập long, song hình lập long dời xuống hai vạt, viền áo thể hiện hình hoa văn vạn phúc vạn thọ cùng mây tía giao nhau, ở dưới vạt áo ngoài hoa văn sóng nước thì còn có các dải màu xanh, đỏ, lục, vàng, huyền xen kẽ nhau. Dạng thức này đến hết thời Thanh, có thể thấy các tranh Hoàng hậu đều là dạng này cả, như tranh vẽ Hiếu Đức Hiển hoàng hậu. Chỉ riêng đến thời Uyển Dung đăng vị Hoàng hậu, lại dùng thể thức Hữu điệp triều quái.

* Triều bào: là áo mặc chính trong bộ lễ phục của hậu phi. Bộ triều phục gồm hai yếu tố quan trọng là: Mã đề tụ (ống tay hình móng ngựa) cùng Phi lĩnh (loại cổ giả khoác lên vai, còn gọi “Khoát lĩnh”), sau đó còn có cổ áo tròn (viên lĩnh), tay áo hẹp nách rộng có viền, hai sườn mở vạt, có hoa văn rồng, đều lấy hình thức cửu long. Hoàng thái hậu, Hoàng hậu và Hoàng quý phi đều dùng Triều bào màu Minh hoàng sắc.

* Triều váy: Có hai loại, một là có áo hai là không dựa theo hiện vật thật. Hậu phi triều phục sử dụng trường hợp rất ít, chỉ ở trọng đại lễ nghi lễ mừng sử dụng, tỷ như đông chí, Nguyên Đán, vạn thọ, sắc phong,… và duy nhất lễ hiến tế tầm đàn của Hoàng hậu chủ trì. Hoàng Hậu triều váy, mùa Đông dùng phiến kim thêm hải long duyên, trên dùng hồng dệt kim thọ tự lụa, xuống dùng xanh đá hành long trang lụa, toàn dùng chính phúc, có bích tích. Mùa hè, triều váy dùng phiến kim duyên. Từ Hoàng hậu đến tần đều có quy chế như nhau.

* Triều quan: là một dạng mũ dùng cho Triều phục, ở giữa có một vật trang trí có tầng Kim phượng, xung quanh còn gắn một vòng những con Kim phượng và một con Kim địch ở sau gáy mũ. Mặt sau của Triều quan, ở dưới đuôi Kim địch có gắn chuỗi Rũ châu làm trang sức. Phía sau của Triều quan có 1 tấm Hộ Lãnh – nguyên liệu dùng giống vành Triều quan rũ xuống phía dưới. Có hai loại Triều quan, 1 cho mùa hè còn một cho mùa đông.

Triều quan của Hoàng thái hậu, Hoàng hậu: mùa đông dùng da huân chồn, mùa hạ dùng Nhung xanh (có tài liệu ghi là Nhung đen) bọc ngoài. Trên đỉnh đính Chu vĩ (chính là phần lông mềm màu đỏ). Đỉnh có 3 tầng, mỗi tầng cách 1 viên Đông châu và một con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 3 viên Đông châu, 17 viên Trân châu, trên cùng của đỉnh Triều quan gắn một 1 viên Đông châu cỡ lớn. Trên Chu vĩ có đính bảy con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 9 viên Đông châu, 1 viên đá mắt mèo, 21 viên Trân châu; một con Kim địch, trên thân Kim địch gắn 1 viên đá mắt mèo, 16 viên Trân châu nhỏ. Chim Địch rũ châu, có 302 viên, kết thành 5 hàng dãy rũ. Dây rũ dùng Minh Hoàng sắc.

Triều quan của Hoàng quý phi, Quý phi: lệ như của Hoàng hậu, mùa Đông dùng da Huân chồn, mùa hạ dùng Nhung xanh, đại khái như Hoàng hậu. Nhưng đuôi chim Địch sức 192 viên, kết thành 3 hàng dây rũ. Quý phi dây rũ dùng màu Kim hoàng sắc.

Triều quan của Phi: trên đỉnh chỉ có 2 tầng, mỗi tầng cách 1 viên Đông châu và một con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 9 viên Đông châu, 17 viên Trân châu, trên đỉnh dùng đá mắt mèo. Trên Chu vĩ có đính năm con Kim phượng, sức 7 Đông châu, 21 trân châu; sau 1 Kim địch, đều như Quý phi. Chim Địch rũ châu, có 188 viên, kết thành 3 hàng dây rũ, đều như Quý phi.

Triều quan của Tần: lệ như Quý phi, có 2 tầng, mặt trên cùng khảm đá Kha. Thân Kim phượng gắn 5 viên Đông châu, 19 viên Trân châu, Kim địch phía sau sức 16 Trân châu, rũ dây tổng 172 viên, còn lại đều như Phi.

* Thải thuế: dây rũ bằng vải trước ngực của các bộ Triều quái, được cột bằng dây có màu theo quy định.

Thải thuế của Hoàng hậu thường màu xanh biếc, thêu Ngũ cốc được mùa, dây cột màu Minh hoàng.

Thải thuế của Hoàng quý phi, cùng Hoàng hậu tương đồng.

Thải thuế của Quý phi, dây cột màu Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.

Thải thuế của Phi, thêu hình Vân chi thụy bảo, còn lại như Quý phi.

Thải thuế của Tần không thêu hoa văn, còn lại như của Phi.

* Triều châu: một bộ dây ngọc khoác bên ngoài Triều quái, thành phần gồm 3 bộ, trong đó có 1 chuỗi dây bằng đá và 2 chuỗi san hô (màu đỏ), dây cột có màu. Hoàng hậu và Phi tần dựa theo chất liệu của Triều châu cùng màu của dây cột mà phân định:

Hoàng hậu: 1 dây Đông châu (màu trắng), 2 dây San hô, dây thắt màu Minh hoàng.

Hoàng quý phi: 1 dây Mật phách (màu vàng mật), 2 dây San hô, dây thắt màu Minh hoàng.

Quý phi: quy chế như của Hoàng quý phi, riêng dây thắt màu Kim hoàng.

Phi: quy chế như của Quý phi.

Tần: 1 dây San hô, 2 dây Mật phách, dây thắt màu Kim hoàng.

* Lãnh ước: là cái kiềng đeo trên cổ Triều quái.

Hoàng hậu: có 11 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây sức đá Ngọc lam.

Hoàng quý phi: có 7 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây cũng sức San hô.

Quý phi: màu dây là Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.

Phi và Tần: đều như Quý phi.

* Kim ước: dây đeo trên trán, để giữ Triều quan.

Hoàng hậu: khắc 13 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 324 viên, phân làm 5 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 5 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 8 viên Đông châu và 8 viên Trân châu xen kẽ.

Hoàng quý phi và Quý phi: khắc 12 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 204 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 6 viên Đông châu và 6 viên Trân châu xen kẽ.

Phi: khắc 11 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 194 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 6 viên Đông châu và 6 viên Trân châu xen kẽ.

Tần: khắc 8 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 177 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 4 viên Đông châu và 4 viên Trân châu xen kẽ.

* Nhị: tức là trang sức đeo ở lỗ tai, theo truyền thống người Mãn, hậu phi đều xỏ 3 lỗ ở tai và đeo 3 viên trang sức hoa tai vào khi mặc Triều phục. Theo quy chế, hình hoa tai của tần phi đều có hình rồng làm bằng vàng, ngoài ra còn sức trân châu mỗi bông 2 viên, tuy nhiên chất lượng trân châu tùy cấp bậc mà khác biệt:

Hoàng hậu: hoa tai dùng Nhất đẳng Trân châu;

Hoàng quý phi và Quý phi: dùng Nhị đẳng Trân châu;

Phi: dùng Tam đẳng Trân châu;

Tần: dùng Tứ đẳng Trân châu;

2. Cát phục

Khác với Triều phục phải dịp trọng đại vinh hiển mới được mặc, còn thì những việc hỉ hay cần trang trọng một chút, các hậu phi đều mặc một thứ phục sức gọi là Cát phục. Trong các triều đại Trung Quốc, chỉ có nhà Thanh là chính thức quy định loại phục sức này, dù trước đó nhà Minh đã hình thành khái niệm rồi.

Loại phục sức này cơ bản giống loại tiếp theo gọi Thường phục, nhưng hoa văn trang sức mỹ lệ, nên còn gọi là Thải phục hay Hoa y. Một bộ Cát phục bao gồm: Long quái mặc ngoài và Long bào mặc bên trong.

* Long quái: Gọi như vậy loại áo “Quái” là dạng áo có xẻ vạt, thân áo dài, ống tay tương đối dài, nhưng không có thức Mã đề tụ, đều có màu xanh đen (tức là Thạch Lam sắc). Theo khai quật được, thì Quái của Đế vương là áo xẻ trước sau, trái phải thành 4 vạt, còn Hậu phi chỉ xẻ đằng sau. Nhưng cứ theo nhiều hình họa thời Thanh sơ kỳ, cho thấy áo nữ cũng xẻ trước sau trái phải 4 vạt như nam giới. Này cũng tương đối dễ hiểu vì đa phần quần áo thời kỳ trước nam nữ khá là giống nhau một cái hình thức.

Hoa văn Long quái, thưở ban đầu là dạng Mãn trang, một thân áo toàn hình Mãn thêu mây. Dạng hoa văn này từ thời Minh hậu kỳ đã hình thành. Năm Khang Hi thứ 25, cứ “Tô Châu dệt cục chí” có ghi nhận những thứ như “Mãn trang quái”, “Phong vân địa long thủy quái”… chính là thể Long quái này. Thể thức này, trước sau ngực thường là trước 2 sau 1 hình chính long, bả vai mỗi vai 1 chính long, ở hai vạt áo có hình phúc hành long trước sau 2 hình, cộng lại đủ 9 hình long. Bên dưới vạt có thể hoa văn “hải thủy giang nhai”. Ngoài ra còn có “Tứ long thức”; là trước sau hai hình đại lập long, hai vai mỗi vai hình 1 long. Loại áo Mãn trang quái này thời Khang-Ung khai quật hiện vật chiếm tỉ lệ rất cao.

Thưở từ thời Càn Long trở đi, cho đến vãn kỳ, đều là dạng Đoàn long trang. Đoàn long, tức là hình rồng ổ cuộn tròn, ngoài đoàn long phân bố ở hai vai, trước sau vùng ngực và trước sau phía dưới vạt áo, thì còn lại để trống và áo thường màu xanh đậm. Một số loại áo thêm hình sóng nước ở vạt áo và dải màu ở ống tay áo.

* Long bào, cũng gọi Mãng bào hay Cát phục bào, loại áo mặc bên trong và cũng là áo chính của một bộ Cát phục thời Thanh. Áo thể viên lĩnh (cổ tròn), ống tay áo dạng Mã đề tụ, khai vạt trái phải, thân áo dài, lĩnh khâm (viền cổ áo) có viền hoa văn. Đại để khá tương đồng với Long bào của phái nam trong hoàng thất.

Hoa văn của áo thường là Mãn địa văn (hình hoa văn phủ khắp áo) và Đoàn văn (hình hoa văn ổ). Thời sơ kỳ, áo bào của Đế-Hậu cùng dạng đoàn long, sau chỉ có hậu phi sử dụng. Ngoài ra dưới vạt áo cũng có hoa văn cột thủy, sóng thủy và đôi khi có đề tài dơi, mây phủ rải rác thân áo bên cạnh đoàn long (cái này khác với dạng mãn địa văn).

Cát phục thường mặc Long quái bên ngoài Long bào, song cũng có trường hợp chỉ mặc Long bào, nhưng do trang phục hoa văn của Long bào khá bắt mắt nên thông thường họ cũng không để lộ ra, chỉ khi vẽ tranh là thường như vậy.

Long bào quy định màu sắc, tương tự triều bào: Thái hậu, Hoàng hậu và Hoàng quý phi dùng màu Minh hoàng, Quý phi và Phi dùng màu Kim hoàng, còn Tần dùng màu Hương.

Quy định về Cát phục của các bậc Hậu phi cụ thể như sau:

Hoàng hậu và Hoàng quý phi: Long quái có 8 hình Ngũ trảo Kim long theo thể thức hình tròn khép kín, 2 vai là hình Chính long (hình rồng quay mặt ra chính diện), vát áo trước thêu 4 hình Hành long (hình rồng xoãi dài bề ngang), bên dưới là hình Bát bảo, Cột thủy, tay áo thêu hình Hành long. Còn một loại áo Long quái thì bên dưới không có Bát bảo Cột thủy, tay áo cũng không thêu hình gì. Long bào dùng màu Kim hoàng, cổ áo giả (Lĩnh tụ) dùng màu Thạch lam, toàn thân áo thêu 9 hình Kim long, xen kẽ là hình Ngũ sắc vân, Phúc thọ văn thải, trước sau chính giữ cổ là hình Chính long, trái phải có các hình Hành long tụ về, tay áo tương tiếp mỗi chỗ 2 hình Hành long, khai vạt. Loại áo thứ 2 Long bào, thêu Ngũ trảo Kim long 8 hình, 2 vai thêu Chính long, vạt áo 4 hình Hành long, bên dưới có Bát bảo, Cột thủy. Một loại nữa không có hoa văn bên dưới, còn lại đều như các loại trên.

Quý phi và Phi: đều có thể thức hoa văn tương tự với Hoàng hậu và Hoàng quý phi, cả Long quái và Long bào, duy Long bào đều dùng màu Minh hoàng.

Tần dùng Long quái trước sau và 2 vai đều là Chính long, ở vạt áo dùng Quỳ long (hình rồng lượn trong 1 hình tròn nhưng không quay chính diện), còn lại như Quý phi và Phi. Long bào của Tần dùng màu Hương, còn lại đều như trên.

Án theo lễ chế, Cát phục sẽ có Cát phục quan. Loại Cát phục quan này, có thể thấy giống với mũ nam giới, đầu là dạng mũ chóp lông đỏ, có thể tùy theo cấp bậc mà có điểm trang sức. Song trong các tranh họa thời kỳ này cũng có người không đội mũ mà chỉ biện tóc, tùy ý cài thêm hai ba loại trang sức. Lại có người dùng khăn đen phủ đầu, cài trâm. Sau này, loại khăn đó hình thành và đỉnh điểm ở thời Càn Long, đã ra Điền tử, một trong những loại phúc sức tiêu biểu của phụ nữ quý tộc nhà Thanh.

Điền tử về sau ngày càng gắn lên đó nhiều trang sức, trở thành một loại “Cát phục quan” không có trong điển lễ. Điền tử này trải qua quá trình biến đổi hình dạng, cuối cùng thành hình thể “thiên can” là hoàn chỉnh.

LƯƠNG BỔNG

1. Hoàng Thái hậu

* Lương bổng (theo năm):

Vàng 20 lượng, bạc 2000 lượng.

* Nhu yếu phẩm (theo năm):

Mãng lụa 2 thất, bổ đoạn 2 thất, chức kim 2 thất, trang đoạn 2 thất, uy đoạn 4 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 2 thất, vân đoạn 7 thất;

Y tố đoạn 4 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 2 thất, dương đoạn 6 thất, cung trù 2 thất, lộ trù 4 thất, sa 8 thất, lí sa 10 thất, phưởng sa 10 thất, hàng tế 10 thất;

Miên trù 10 thất, cao lệ bố 10 thất, tam tuyến bố 5 thất, mao thanh bố 40 thất, thô bố 5 thất, kim tuyến 20 lữu, nhung 10 cân, miên tuyến 6 cân, mộc miên 40 cân;

2 hào ngân nữu 200, 3 hào ngân nữu 200, 2 đẳng điêu bì 10, 3 đẳng điêu bì 20, 5 đẳng điêu bì 70, lí điêu bì 12, hải long bì 12.

* Nhu yếu phẩm (theo ngày):

Heo một con, dê, gà, vịt các loại 1 chỉ, tân canh mễ 2 thăng, hoàng lão mễ 1 thăng 5 hợp, cao lệ giang mễ 3 thăng, canh mễ phấn 3 cân, bạch diện 51 cân;

Kiều mạch diện, mạch tử phấn các loại 1 cân, Oản đậu 3 hợp, chi ma 1 hợp 5 chước, bạch đường 2 cân 1 lưỡng 5 tiền, bồn đường 8 lưỡng, phong mật 8 lưỡng, hạch đào nhân 4 lưỡng, tùng nhân 2 tiền;

Cẩu kỷ 4 lưỡng, càn táo 10 lưỡng, trư nhục 12 cân, hương du 3 cân 10 lưỡng, kê đản 20 cá, diện cân 1 cân 8 lưỡng, đậu hũ 2 cân, phấn oa tra 1 cân, điềm tương 2 cân 12 lưỡng, thanh tương 2 lưỡng, thố 5 lưỡng, tiên thái 15 cân, gia tử 20 cá, vương qua 20 điều, bạch chá 7 chi, hoàng chá 2 chi, dương du chá 20 chi, dương du canh chá 1 chi;

Than Hồng la: mùa hè 20 cân, mùa đông 40 cân; than đen: mùa hè 40 cân, mùa đông 80 cân.

2. Hoàng hậu

* Lương bổng (theo năm):

Bạc 1000 lượng.

* Nhu yếu phẩm (theo năm):

Mãng đoạn 2 thất, bổ đoạn 2 thất, chức kim 2 thất, trang đoạn 2 thất, uy đoạn 4 thất, thiểm đoạn 2 thất, kim tự đoạn 2 thất, vân đoạn 7 thất, y tố đoạn 4 thất;

Lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 2 thất, dương đoạn 6 thất, cung trù 2 thất, lộ trù 4 thất, sa 8 thất, lí sa 8 thất, lăng 8 thất, phưởng ti 8 thất, hàng tế 8 thất;

Miên trù 8 thất, cao lệ bố 10 thất, tam tuyến bố 5 thất, mao thanh bố 40 thất, thô bố 5 thất, kim tuyến 20 lữu, nhung 10 cân, miên tuyến 6 cân, mộc miên 40 cân, lí điêu bì 40, Ô lạp điêu bì 50.

* Nhu yếu phẩm (theo ngày):

Thịt heo 16 cân, thịt dê 1 mâm, gà, vịt các một loại chỉ, tân canh mễ 1 thăng 8 hợp, hoàng lão mễ 1 thăng 3 hợp 5 chước, cao lệ giang mễ 1 thăng 5 hợp, canh mễ phấn 1 cân 8 lưỡng;

Bạch diện 7 cân 8 lưỡng, kiều mạch diện 8 lưỡng, oản đậu 3 hợp, bạch đường 1 cân, bồn đường 4 lưỡng, phong mật 4 lưỡng, hạch đào nhân 2 lưỡng, tùng nhân 1 tiền, cẩu kỷ 4 lưỡng, càn táo 5 lưỡng, trư du 1 cân, hương du 1 cân, kê đản 10 cá, diện cân 12 lưỡng, đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 1 cân, điềm tương 1 cân 6 lưỡng 5 tiền, thanh tương 1 lưỡng, thố 2 lưỡng 5 tiền;

Tiên thái 15 cân, gia tử 20 cá, vương qua 20 điều, bạch chá 5 chi, hoàng chá 4 chi, dương du chá 10 chi, dương du canh chá 1 chi;

Than Hồng la: mùa hè 10 cân, mùa đông 20 cân; Than đen: mùa hè 30 cân, mùa đông 60 cân.

3. Hoàng quý phi

* Lương bổng (theo năm):

Bạc 800 lượng.

Mãng đoạn 1 thất, bổ đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 6 thất, y tố đoạn 3 thất;

Lam tố đoạn 3 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 4 thất, bành đoạn 4 thất, cung trù 2 thất, lộ trù 3 thất, sa 8 thất, lí sa 7 thất, lăng 7 thất, phưởng ti 7 thất, hàng tế 7 thất, miên trù 6 thất, cao lệ bố 8 thất, tam tuyến bố 3 thất, mao thanh bố 15 thất, thâm lam bố 15 thất, thô bố 5 thất, kim tuyến 14 lữu, nhung 8 cân, miên tuyến 6 cân;

Mộc miên 30 cân, lí điêu bì 30, ô lạp điêu bì 40.

Thịt heo 12 cân, thịt dê 1 mâm, gà 1 chỉ (hoặc vịt 1 chỉ), trần canh mễ 1 thăng 5 hợp, hoàng lão mễ 1 thăng 3 hợp 5 chước, cao lệ giang mễ 1 thăng 5 hợp, canh mễ phấn 1 cân 8 lưỡng;

Bạch diện 5 cân, kiều mạch diện 8 lưỡng, oản đậu 3 hợp, bạch đường 5 lưỡng, bồn đường 4 lưỡng, phong mật 4 lưỡng, hạch đào nhân 1 lưỡng, tùng nhân 1 tiền, cẩu kỷ 4 lưỡng, càn táo 5 lưỡng;

Trư du 1 cân, hương du 1 cân, kê đản 10 cá, diện cân 12 lưỡng, đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 1 cân, điềm tương 1 cân 6 lưỡng 5 tiền, thanh tương 1 lưỡng, thố 2 lưỡng 5 tiền;

Tiên thái 15 cân, gia tử 20 cá, vương qua 20 điều, bạch chá 5 chi, hoàng chá 4 chi, dương du chá 10 chi, dương du canh chá 1 chi;

Than Hồng la: mùa hạ 10 cân, mùa đông 20 cân, Than đen: mùa hạ 30 cân, mùa đông 60 cân;

Lá Lục An trà 14 lượng (mỗi tháng), Lá Thiên Trì trà 8 lượng (mỗi tháng).

4. Quý phi

Bạc 600 lượng.

Mãng đoạn 1 thất, bổ đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 4 thất, y tố đoạn 3 thất;

Lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 2 thất, bành đoạn 1 thất, cung trù 2 thất, lộ trù 3 thất, sa 4 thất, lí sa 7 thất, lăng 6 thất, phưởng ti 7 thất, hàng tế 5 thất, miên trù 5 thất, cao lệ bố 6 thất, tam tuyến bố 2 thất, mao thanh bố 12 thất, thâm lam bố 12 thất, thô bố 5 thất, kim tuyến 12 lữu, nhung 6 cân, miên tuyến 4 cân;

Mộc miên 25 cân, lí điêu bì 20, ô lạp điêu bì 30.

Thịt heo 9 cân 8 lưỡng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 15 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 1 thăng 3 hợp 5 chước, bạch diện 3 cân 8 lưỡng, bạch đường 3 lưỡng, hạch đào nhân 1 lưỡng, càn táo 1 lưỡng 6 tiền, hương du 6 lưỡng, kê đản 4 cá, diện cân 4 lưỡng, đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 8 lưỡng, điềm tương 6 lưỡng 5 tiền, thanh tương 8 tiền, thố 2 lưỡng 5 tiền;

Tiên thái 10 cân, gia tử 8 cá, vương qua 8 điều, bạch chá 2 chi, hoàng chá 2 chi, dương du chá 5 chi;

Than Hồng la: mùa hạ 10 cân, mùa đông 15 cân; Than đen: mùa hạ 30 cân, đông 60 cân;

Lá Lục An trà 14 lưỡng (mỗi tháng), Lá Thiên Trì trà 8 lưỡng (mỗi tháng).

5. Phi

Bạc 300 lượng.

Mãng đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 4 thất, y tố đoạn 2 thất, lam tố đoạn 1 thất;

Mạo đoạn 1 thất, bành đoạn 3 thất, cung trù 1 thất, lộ trù 2 thất, sa 4 thất, lí sa 5 thất, lăng 5 thất, phưởng ti 4 thất, hàng tế 5 thất, miên trù 5 thất, cao lệ bố 5 thất, tam tuyến bố 2 thất, mao thanh bố 10 thất, thâm lam bố 10 thất, thô bố 3 thất, kim tuyến 10 lữu, nhung 5 cân, miên tuyến 3 cân, mộc miên 20 cân, lí điêu bì 10;

Ô lạp điêu bì 20.

Thịt heo 9 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 10 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 1 thăng 3 hợp 5 chước, bạch diện 3 cân 8 lưỡng, bạch đường 3 lưỡng, hạch đào nhân 1 lưỡng;

Càn táo 1 lưỡng, hương du 6 lưỡng, kê đản 4 cá, diện cân 4 lưỡng, đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 8 lưỡng, điềm tương 6 lưỡng 5 tiền, thố 2 lưỡng 5 tiền, tiên thái 10 cân;

Gia tử 8 cá, vương qua 8 điều, bạch chá 2 chi, hoàng chá 2 chi, dương du chá 2 chi;

Than Hồng la: mùa hạ 5 cân, mùa đông 10 cân; Than đen: mùa hạ 25 cân, mùa đông 40 cân;

Lá Lục An trà 14 lưỡng (mỗi tháng), Lá Thiên Trì trà 8 lưỡng (mỗi tháng).

6. Tần

Bạc 200 lượng.

Mãng đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 1 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 2 thất, y tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất;

Dương đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất, cung trù 1 thất, lộ trù 2 thất, sa 1 thất, lí sa 2 thất, lăng 3 thất, phưởng ti 3 thất, hàng tế 3 thất, cao lệ bố 4 thất;

Mao thanh bố 8 thất, thâm lam bố 8 thất, thô bố 4 thất, kim tuyến 6 lữu, nhung 3 cân, miên tuyến 3 cân, mộc miên 15 cân, lí điêu bì 4, ô lạp điêu bì 20.

Thịt heo 6 cân 8 lưỡng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 10 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 1 thăng 3 hợp, bạch diện 2 cân, bạch đường 2 lưỡng, hương du 5 lưỡng 5 tiền;

Đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 8 lưỡng, điềm tương 6 lưỡng, thố 2 lưỡng, tiên thái 8 cân, gia tử 6 cá, vương qua 6 điều, bạch chá 2 chi, hoàng chá 2 chi, dương du chá 2 chi;

Than Hồng la: mùa hạ 5 cân, mùa đông 8 cân; Than đen: mùa hạ 20 cân, mùa đông 30 cân;

Lá Lục An trà 14 lưỡng (mỗi tháng), Lá Thiên Trì trà 8 lưỡng (mỗi tháng).

7. Quý nhân

Bạc 100 lượng.

Uy đoạn 1 thất, vân đoạn 2 thất, y tố đoạn 2 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 1 thất, cung trù 1 thất, lộ trù 2 thất, sa 2 thất;

Lí sa 2 thất, lăng 2 thất, phưởng ti 2 thất, cao lệ bố 3 thất, mao thanh bố 6 thất, thâm lam bố 6 thất, thô bố 3 thất, kim tuyến 3 lữu, nhung 3 cân, miên tuyến 2 cân;

Mộc miên 12 cân, lí điêu bì 4, ô lạp điêu bì 10.

Thịt heo 6 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 8 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 1 thăng 2 hợp, bạch diện 2 cân, bạch đường 2 lưỡng, hương du 3 lưỡng 5 tiền, đậu hũ 1 cân, phấn oa tra 8 lưỡng, điềm tương 6 lưỡng, thố 2 lưỡng, tiên thái 6 cân, gia tử 6 cá, vương qua 6 điều, bạch chá 1 chi, hoàng chá 1 chi, dương du chá 1 chi;

Than Hồng la mùa đông 5 cân; Than đen: mùa hạ 18 cân, mùa đông 25 cân;

Lá Lục An trà 7 lưỡng (mỗi tháng), Lá Thiên Trì trà 4 lưỡng (mỗi tháng).

8. Thường tại

Bạc 50 lượng.

Vân đoạn 1 thất, y tố đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất, cung trù 1 thất, lộ trù 1 thất, sa 1 thất, lăng 1 thất, phưởng ti 1 thất, mộc miên 3 cân.

Thịt heo 5 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 5 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 1 thăng 2 hợp, bạch diện 2 cân, bạch đường 2 lưỡng, hương du 3 lưỡng 5 tiền;

Đậu hũ 1 cân 8 lưỡng, phấn oa tra 8 lưỡng, điềm tương 6 lưỡng, thố 2 lưỡng, tiên thái 6 cân, gia tử 6 cá, vương qua 6 điều, bạch chá 2 chi, dương du chá 1 chi;

Than đen: mùa hạ 10 cân, mùa đông 20 cân.

9. Đáp ứng

Bạc 30 lượng.

Vân đoạn 1 thất, y tố đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất, cung trù 1 thất, lộ trù 1 thất, sa 1 thất, lăng 1 thất, phưởng ti 1 thất, mộc miên 3 cân.

Thịt heo 1 cân 8 lưỡng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 5 chỉ (mỗi tháng), trần canh mễ 6 hợp, bạch diện 2 cân, tùy thời tiên thái 2 cân, hoàng chá 1 chi, Dương du chá 1 chi;

Than đen: hạ 5 cân, đông 10 cân.

10. Quan nữ tử

Bạc 6 lượng.

Vân đoạn 1 sơ, cung trừu 1 sơ, sa 1 sơ, phưởng ti 1 sơ, hàng tế 1 sơ, mộc miên 2 cân.

Thịt heo 1 cân, bạch lão mễ 7 hợp 5 chước, hắc diêm 3 tiền, tiên thái 12 lưỡng.

Đăng bởi: Thị Ngọc Huyền Hoàng

Từ khoá: Phân vị Phi tần trong hậu cung Nhà Thanh Trung Hoa xưa

Chuyện Học Yêu Của Hoàng Tộc Trung Hoa Xưa

Xuân cung đồ – tư liệu giảng dạy về giới tính của cổ nhân khiến hậu thế phải “đỏ mặt tía tai”

Tại Trung Hoa cổ đại, giáo dục giới tính đã xuất hiện từ rất sớm và trở thành những bài học không thể thiếu đối với các nam tử xuất thân trong hoàng tộc. Đối với các hoàng tử thời phong kiến, từ năm 14 tuổi hoặc thậm chí sớm hơn, họ đã được phổ cập những bài học vỡ lòng về vấn đề giáo dục giới tính. Trong số đó, phương pháp phổ biến và đi đầu vào thời bấy giờ chính là dùng “xuân họa” hay còn gọi là “xuân cung đồ”, tức là sử dụng những tranh ảnh vẽ lại cảnh sinh hoạt vợ chồng làm tư liệu giảng dạy.

Theo nhận định của học giả Thẩm Đức Phù sống vào thời nhà Minh, xuân cung đồ đã xuất hiện ở Trung Hoa từ thời Tây Hán. Người phát minh ra loại tranh nhạy cảm này là Lưu Hải Dương – con trai của Quảng Xuyên Vương Lưu Khứ (vương chư hầu thứ tư của nước Quảng Xuyên dưới thời nhà Hán).

Tương tự như người cha khét tiếng trăng hoa của mình, Lưu Hải Dương cũng bị đánh giá là một kẻ háo sắc. Để tiện cho việc hành lạc, ông đã sai họa sĩ vẽ những bức họa khiến người khác đỏ mặt lên 4 vách tường và thậm chí là cả trần nhà trong cung của mình, lấy đó làm “thú vui” thưởng thức.

Xuân cung đồ sau đó dần được lưu truyền trong dân gian. Các triều đại phong kiến Trung Hoa sau này vẫn thường coi chúng như công cụ đặc thù không thể thiếu trong vấn đề giáo dục giới tính.

Tuy nhiên điểm đáng nói là họ không đơn thuần coi tranh xuân cung làm công cụ giáo dục mà thực chất sử dụng chúng như một thứ công cụ để hành lạc.

Tương truyền rằng, Tiêu Bảo Quyển năm xưa từng có một Quý phi tên Phan Ngọc Nhi được sủng ái nhờ dung mạo xuất chúng. Hoàng đế Nam triều này cũng đã học theo cách làm năm xưa của Lưu Hải Dương, vẽ đủ thứ xuân cung đồ trên các vách tường trong hậu cung để khi thị tẩm có thể cùng Phan thị “tham khảo học tập”.

Tùy Dạng Đế Dương Quảng lại càng phát huy thêm thú vui không lấy gì làm tao nhã này. Ông thậm chí còn cho các họa sĩ có cơ hội trực tiếp “thị phạm” để vẽ lại cảnh mình ân ái cùng cung tần mỹ nữ.

Giai thoại nổi tiếng hơn cả phải kể tới Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên. Năm xưa, Lý Trị từng đặc biệt xây một tòa cung điện riêng để lâm hạnh phi tần, còn cho người vẽ lại cảnh mình ân ái lên các bức tường ở nơi đó. Có một lần bề tôi là Lưu Nhân Quỹ tình cờ bước vào tòa điện ấy. Vị quan này khi đó không khỏi hốt hoảng, còn nhầm tưởng rằng trong cung khi đó có tới mấy vị Hoàng đế! Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Võ Tắc Thiên đã tận dụng tòa cung điện đầy cảnh xuân sắc kia trở thành nơi để bản thân vui thú cùng nam sủng.

Chuyện giáo dục giới tính của hoàng tộc Trung Hoa xưa: Không chỉ dừng ở việc “mắt mục sở thị”

Bên cạnh những bức họa vẽ lại các cảnh nhạy cảm như xuân cung đồ, hoàng thất Trung Hoa xưa còn sử dụng một công cụ giáo dục giúp các Hoàng tử chỉ cần “nhìn là đủ hiểu”.

Các Hoàng đế trẻ tuổi trước khi thành thân sẽ được bí mật dẫn đi xem một thứ gọi là “Hoan Hỉ Phật”. Cụ thể, vào thời nhà Minh, Tử Cấm Thành có xây cất một mật thất riêng để thờ cúng bức tượng này. Bên trong mật thấy đó sẽ đặt một bức tượng tạc hình ảnh nam nữ hợp thể, nhìn qua sẽ chỉ thấy đơn thuần đó là một đôi trai gái đang ôm nhau thân thiết. Tuy nhiên, thực tế là bức tượng đó có thiết lập một số cơ quan bí mật, chỉ cần ấn vào những cơ quan này thì đôi trai gái trên tượng bắt đầu ân ái, thậm chí còn biến hóa thành đủ các loại động tác.

Khi mới vào mật thất nói trên, ngay tới Hoàng đế cũng phải cử hành nghi thức thắp hương và lễ bái, sau đó mới được phép nhấn vào các cơ quan trên tượng để thị phạm và tập luyện. Và chỉ khi việc tham khảo thông qua “Hoan Hỉ Phật” được hoàn thành, những vị Hoàng đế này mới có thể tiến hành lễ hợp cẩn và động phòng.

Không chỉ dừng lại ở việc thị phạm, các hoàng tử thời xưa thậm chí còn được các nữ quan, cung nữ đích thân dâng hiến cơ thể của chính mình để cho họ thể nghiệm các bài học giới tính. Năm xưa, Hoàng thái tử Tấn triều Tư Mã Trung trời sinh đã có trí tuệ kém phát triển. Do đó vào trước ngày thành thân, cha ông là Tư Mã Viêm đã phái Tài nhân Tạ Cửu đi tới Đông Cung để đích thân dạy dỗ Thái tử chuyện chăn gối. Tương tự như vậy, Bắc Ngụy Văn Thành Đế Thác Bạt Tuấn dù chính thức thành thân vào năm 17 tuổi, nhưng từ khi mới lên 13 đã tiến hành lâm hạnh cung nữ và thậm chí còn làm cha từ thuở thiếu niên.

Thực tế, việc các hoàng tử hay Hoàng đế nhỏ tuổi được các cung nữ lấy thân để truyền dạy kinh nghiệm phòng the cũng không phải là hiếm. Có đôi khi, người được đảm nhiệm công việc này thậm chí còn là chính những nhũ mẫu đã chăm sóc họ từ thuở mới lọt lòng. Trong số đó, nhũ mẫu Vạn thị của Minh triều là người may mắn hơn cả. Mặc dù già hơn tới 19 tuổi và là nhũ mẫu chăm nom nhà vua từ thuở còn thơ, thế nhưng nhờ vào việc trở thành người phụ nữ đầu tiên trong cuộc đời Hoàng đế Chu Kiến Thâm, Vạn thị đã được phong làm phi tần và thậm chí còn độc sủng hậu cung trong suốt khoảng thời gian vị vua ấy tại vị.

Từ những minh chứng trên, không khó để nhận thấy cổ nhân Trung Hoa xưa đã áp dụng các bài học giáo dục giới tính từ rất sớm. Tuy nhiên, những phương pháp học “mắt thấy tai nghe” thực tế vẫn chủ yếu chỉ được áp dụng trong hoàng cung hoặc tại các gia đình quyền thế, giàu có.

Dù vậy, sự xuất hiện của các “giáo cụ trực quan” sinh động nêu trên cũng đủ để khiến hậu thế ngày nay không khỏi ngạc nhiên về mức độ cởi mở của người xưa trong việc phổ biến những bài học về chuyện chăn gối.

Đăng bởi: Bùi Bích Huệ

Từ khoá: Chuyện học yêu của hoàng tộc Trung Hoa xưa

Những Địa Điểm Ngắm Nhìn Hoa Tuyệt Đẹp Khắp Châu Á

Mùa xuân là thời điểm muôn hoa nở rộ ở khắp nơi trên thế giới. Cùng điểm qua những địa điểm ngắm hoa tuyệt đẹp khắp Châu Á giúp du khách có nhiều lựa chọn thưởng hoa hơn trong thời gian tới.

Hàn Quốc

Ngắm hoa ở Jinhae, Changwon, nơi mà cách Busan hơn 30 km về phía tây, là một thị trấn ven biển yên tĩnh, nổi tiếng với lễ hội hoa anh đào lớn nhất Hàn Quốc. Với 2 địa điểm đặc biệt nhất để ngắm hoa anh đào là suối Yeojwacheon và ga Gyeonghwa, nơi mà du khách có thể vừa đi tản bộ, vừa thưởng thức ẩm thực đường phố.

Gurye, Jeollanam-do, Hàn Quốc

Nơi đây không chỉ nổi tiếng với phong cảnh đẹp như tranh vẽ, mà thị trấn nhỏ Gurye còn được biết đến với lễ hội hoa sơn thù du thường diễn ra tại khu vực suối nước nóng dưới chân núi Jirisan vào khoảng giữa tháng 3. Ngoài ra, vào tháng 4, còn có một lễ hội hoa sơn thù du khác được tổ chức ở Incheon tại làng Baeksa, nơi có những cây sơn thù du hàng trăm năm tuổi.

Đảo Jeju, Hàn Quốc

Nhật Bản

Nhật Bản với hơn 600 loài hoa anh đào khác nhau và mỗi loài lại mang một vẻ đẹp riêng đều làm ngây ngất lòng người.

Vào mùa xuân, các công viên, vườn hoa và đường phố trên khắp nước Nhật đều ngập tràn sắc hồng của những cây anh đào. Những địa điểm lý tưởng để ngắm hoa anh đào có thể kể đến như Tokyo, Kyoto, Osaka hay Hiroshima.

Công viên Hitachi Seaside, Nhật Bản

Trung Quốc

Nơi đây có vông viên Gucun nằm ở Thượng Hải thường là nơi tổ chức lễ hội hoa anh đào hàng năm của Trung Quốc. Ngoài ra, du khách có thể đến Phúc Kiến ngắm những đồi chè xanh và hoa anh đào hồng trong gió xuân.

Công viên  Yuantong Shan ở Côn Minh, Vân Nam là địa điểm bạn không nên bỏ qua khi muốn ngắm hoa anh đào ở Trung Quốc. Giữa tháng 3 là thời điểm hoa anh đào  Yuantong Shan nở rộ nhất, dày đặc và có màu hồng tạo nên một thiên đường hoa anh đào.

La Bình, Vân Nam, Trung Quốc

Bắc Kinh, Trung Quốc

Địa điểm này từ cuối tháng 3 đến đầu giữa tháng 5 nổi bật với các loài hoa xuân rực rỡ như hoa đào, hải đường, mẫu đơn, mộc lan, anh đào, đỗ quyên. Bên cạnh đó, vào khoảng giữa tháng 4, du khách đến với Bắc Kinh còn có cơ hội được ngắm nhìn hàng triệu bông hoa tulip với hàng chục loài hoa khác nhau tại lễ hội hoa tulip Bắc Kinh.

Đài Loan

Không chỉ ở Nhật Bản, Trung Quốc hay Hàn Quốc, hoa anh đào cũng là loài hoa đại diện cho mùa xuân ở Đài Loan. Thời gian hoa nở rộ vào khoảng từ tháng 2 đến cuối tháng 4, du khách đến Đài Loan có thể ngắm nhìn những bông hoa anh đào hồng phấn tuyệt đẹp tại nhiều địa điểm như nông trại Vũ Lăng, đồi Thanh Cảnh, hồ Nhật Nguyệt hay công viên quốc gia Dương Minh Sơn.

Đăng bởi: Mộc Trà

Từ khoá: Những địa điểm ngắm nhìn hoa tuyệt đẹp khắp Châu Á

Nhìn Lại Trang Phục Phụ Nữ Việt Nam (Cổ Phục) Qua Các Thời Kỳ

Từ thời khai hoang mở nước cho đến cuối triều Nguyễn, trang phục Việt luôn kế thừa và biến đổi theo biến động lịch sử. Bất kể là ở thời kì nào, trang phục của phụ nữ Việt vẫn luôn tạo được những dấu ấn rất riêng. Cùng nhau điểm qua một số loại trang phục qua từng thời kỳ.

Ngay từ thời kỳ đầu mở nước, nghệ thuật dệt vải đã ở trình độ cao, với ít nhất hai loại vải dệt từ cây và sợi, nên ông cha ta có thể tạo nên đa dạng các bộ trang phục có màu sắc, kiểu dáng khác nhau

Phụ nữ thời Hùng Vương thường mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, bó sát vào người, phía trong mặc yếm kín ngực có cổ tròn sát cổ, trang trí thêm hình những tấm hạt gạo.

Cũng có những loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín ngực, hở một phần vai và trên lưng. Hai loại sau có thể là loại mặc chui đầu hay cài khuy bên trái. Trên áo đều có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng

Phụ nữ thời đó còn mặc áo chui đầu vạt trái, búi tóc, đi chân trần.

Trang phục phụ nữ người Việt cổ bao gồm khăn đội đầu (khăn vuông), khăn vấn tóc, yếm, thắt lưng, áo cánh, váy, áo tứ thân, áo năm thân.

Chiếc yếm của phụ nữ là một miếng vải hình vuông khoét một góc tạo thành cổ, phần vải còn lại tạo thành chiếc yếm ở trước ngực làm đồ lót mặc sát người của phụ nữ Việt Nam. Yếm thường được may bằng lụa hoặc vải nõn sợi nhỏ hoặc vải quyến đủ các màu sắc trừ màu đen.

Độ dài thắt lưng khoảng 1,5-2m, rộng chừng 15-20cm. Thắt lưng thường được dệt bằng lụa sồi, có độ dài quấn quanh người hai vòng mà vẫn còn dư ra một đoạn để có thể thắt nút giọt lệ, buông rủ dải thắt lưng xuống phía trước..

Hai đầu thắt lưng người ta chừa khoảng sợi dọc (còn gọi là sợi canh) không dệt, để tết tua cho đẹp. Thắt lưng được nhuộm theo màu cầu vồng năm sắc sặc sỡ. Phụ nữ thường thắt hai thắt lưng, làm lộ ra nhiều màu sắc đẹp

Váy phụ nữ Việt thời đó gồm ba phần: cạp váy, gấu váy (còn gọi là lai váy) và thân váy. Loại váy dài thường dùng trong lễ phục thì buông trùng tới mu bàn chân. Người giàu mặc váy bằng lụa, lĩnh, hoặc loại lụa dệt dày láng bóng thêm cho trang phục.

Vải vóc nước ta thời đó thì có các loại the Cát Liễu, the hoa tim táo sợi thẳng, the hợp, lụa bóng bông, ỷ, lĩnh, là, hài tơ khá lạ mà tốt. Hai thứ gai, tơ chuối thì được chắp lại làm vải, mịn như lụa nõn, rất hợp mặc vào mùa hè.

Trang phục dân tộc của phụ nữ được chia làm 2 giai đoạn. Từ thế kỷ 13-15 đặc trưng với áo có phần ống tay rộng, phần áo choàng có cổ áo khoét sâu rộng, bên trong mặc một chiếc yếm quây. Đến thế kỷ 15-16, thời kỳ cuối nhà Trần, đầu nhà Lê, phần cổ áo đã được may kín đáo hơn với phần cổ tròn, ống tay gọn gàng hơn. Tuy nhiên, màu sắc lại có phần cầu kỳ và bắt mắt hơn.

Phụ nữ cũng mặc áo đen, song áo trắng bên trong lộ rõ ra ngoài, ôm lấy cổ, rộng bốn tấc là khác biệt. Các màu xanh, đỏ, vàng, tía tuyệt nhiên không được sử dụng

Chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Trung Hoa, trang phục của phụ nữ Việt thời Lê có nhiều nét giống với kiểu áo choàng Hanfu của Trung Quốc với phần ống tay rộng, chiếc thắt lưng to ngang eo được dùng để cố định bộ áo choàng này lại.

Vào thời đại này, phụ nữ mặc áo dài tứ thân cổ tròn, thắt lưng buông dài trước bụng, váy dài và rộng. Tóc thì để dài, rẽ đường ngôi giữa. Những người phụ nữ quý tộc có gu ăn mặc cầu kì hơn, sử dụng những dải xiêm màu sắc rủ xuống chân, góp phần mang lại vẻ đẹp yểu điệu, thướt tha.

Trang sức cũng ngày càng đa dạng hơn về kiểu dáng, màu sắc, với vòng tay tròn dẹt, hoa tai hình quả bầu, hình hoa sen hay khuyên tròn đẹp mắt.

Cho đến thời kỳ Hậu Lê bắt đầu xuất hiện nhiều kiểu trang phục khác nhau và các bộ váy áo đã thể hiện được nét văn hóa riêng. Những bộ trang phục của phụ nữ thời kỳ Hậu Lê rất kín đáo với nhiều lớp áo mang nhiều màu sắc khác nhau. Đặc trưng nhất vẫn là phần ống tay rộng.

Trang phục hầu gái (hay quan hầu trong cung) có áo cổ tròn, có thể vạt áo tay dài hay ngắn, váy đơn hay xếp lớp, tay áo rộng hay hẹp…

Trang phục phụ nữ thời Tây Sơn khá cầu kỳ với các chi tiết thêu, may đắp tỉ mỉ. Đặc biệt, triều đại này gắn liền với những cuộc chiến tranh lớn, nên trang phục của phụ nữ thời này hơi giống chiến phục, thay vì váy thì họ mang quần. Những năm đầu thế kỷ 19, phụ nữ bị cấm mặc váy vì cho là dung tục.

Sang thế kỷ 19, mẫu áo dài năm thân được ưa chuộng. Trang phục gồm hai khổ vải được may nối nhau thành thân trước theo phong cách kín đáo. Bốn thân áo bên ngoài tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu: cha mẹ mình và cha mẹ người thương, thân áo thứ năm đại diện cho người mặc. Áo luôn có năm cúc, thể hiện đạo lý làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Advertisement

Trong xã hội, những phục trang truyền thống như áo dài, áo yếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao… đã là kết tinh văn hóa của cả dân tộc.

Trong khi chiếc yếm đào vượt khỏi chốn cung đình để cùng người phụ nữ cần lao “dầm mưa dãi nắng” ngoài đồng ruộng, hay cùng áo tứ thân lượt là trong những buổi hội Lim, thì thời trang phương Tây với những chiếc váy xòe, những chiếc đầm cách tân hiện đại cũng dần du nhập và được phụ nữ quý tộc trẻ ưa chuộng, trong đó Hoàng hậu Nam Phương – vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, là người rất thích mặc trang phục Tây phương và mặc rất đẹp.

Người Chăm Phan Rang Xưa Qua Ánh Nhìn Từ Những Bức Ảnh Cũ

Một trong những điều tạo nên dấu ấn đậm nét của người Chăm Việt Nam nói chung và người Chăm Phan Rang nói riêng chính là “Văn hóa”. Văn hóa của cuộc sống, văn hóa của con người, văn hóa của những tập quán, tập tục được lưu trong miền ký ức, được in trên dòng thời gian, và được thể hiện qua những lễ hội truyền thống của dân tộc. …

Văn hóa người Chăm là thế, có rất nhiều và rất nhiều điều để nói. Và bạn đã một lần được xem, được nghe, được văn hóa của họ? Nếu chưa, chúng tôi xin mời bạn cùng tìm hiểu đôi nét văn hóa người Chăm Phan Rang qua những tấm ảnh quý được chụp cách đây vài chục năm.

Hai bức hình này được chụp vào đầu thế Kỷ XIX, khi toàn quyền Đông Dương Pháp chính thức ban quyết định thành lập tỉnh Phan Rang (tiền thân tỉnh Ninh Thuận ngày nay) vào ngày 20 tháng 5 năm 1901 (Theo nhà sử học Dương Trung Quốc viết trong cuốn “Việt Nam những sự kiện lịch sử”).

Khoảng đầu thế kỷ XX này, nét sinh hoạt của người Chăm và người Kinh đã có sự hòa hợp. Họ cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau trao đổi hàng hóa, mua bán ở những ngôi chợ huyện có nhiều dân cư sinh sống.

Cũng qua hai bức hình ta có thể thấy rõ, người Chăm lúc này rất coi trọng nét văn hóa của mình. Điều này thể hiện qua trang phục họ mặc với chiếc áo dài truyền thống, khăn quấn đầu và đi chân đất. Đây là nét tập tập tục trong sinh hoạt rất đáng trân quý mà đến nay họ vẫn còn lưu giữ.

Bức ảnh này được chụp vào năm 1930 trong một ngày hội truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm. Trong ảnh là đối múa đang uyển chuyển với những điệu múa vạt truyền thống và xung quanh là cảnh người tham gia hội rất đông.

Bức ảnh được chụp vào năm 1945. Trong ảnh là hai thiếu nữ đang trò chuyện giữa trời trưa nắng và trên mình chính là bộ trang phục truyền thống với áo dài, khăn quấn xõa ngang vai, ngực đeo trang sức.

Chân dung một phụ nữ Chăm Bàlamôn đang đội vật phẩm trên đầu được mua trong phiên chợ làng. Bức ảnh được chụp vào năm 1950.

Bức ảnh này được chụp vào năm 1967. Trong hình là hai phụ nữ Chăm với bộ trang phục truyền thống, tuy nhiên nhìn kỹ thì trang phục truyền thống lúc này đã có sự cách tân theo trang phục áo dài của Việt Nam.

Bức ảnh này cũng được chụp vào năm 1967. Trong hình là cảnh các phụ nữ Chăm và Kinh đang bê vác hàng hóa từ xe chở hàng về kho lưu trữ.

Bức ảnh này được chụp vào năm 1969 tại Phan Rang. Trong hình là người phụ nữ Chăm trong trang phục truyền thống, đầu đang đội thúng đựng các vật phẩm và rảo bước một cách điêu liệu trên đường.

Cả ba bức ảnh trên đều được chụp vào năm 1983 tại làng Chăm Chung Mỹ, thị trấn Phước Dinh, huyện Ninh Phước. Trong ảnh diễn tả một buổi sinh hoạt văn hóa, với các tiết phẩm văn nghệ như múa trống, múa quạt, múa giao duyên với nhau giữa nam và nữ.

Người phụ nữ Chăm ẵm đứa con đứng bên sản phẩm gốm Bàu Trúc (Ảnh: Nguyễn Văn Kự)

Bức ảnh này được chụp vào năm 1983 tại làng gốm Chăm Bàu Trúc. Trong ảnh là một người mẹ đang bồng đứa con giữa những sản phẩm truyền thống mà bao đời này phụ nữ Chăm vẫn làm.

Người phụ nữ Chăm với nghề làm gốm không dùng bàn xoay ( Ảnh: Nguyễn Văn Kự)

Bức ảnh này cũng được chụp vào năm 1983 tại làng gốm Chăm Bàu Trúc. Có thể nói, cuộc đời của người phụ nữ Chăm làng Bàu Trúc gắn liền với nghề truyền thống của dân tộc. Họ thấy gốm, vui đùa với gốm, đến tuổi mới lớn thì tập tành làm gốm và cứ thế họ gắn liền với gốm đến suốt đời.

Cảnh nung gốm truyền thống tại làng gốm Bàu Trúc Mỹ Nghiệp. Bức ảnh này cũng được chụp vào năm 1983.

Nụ cười duyên dáng của cô gái Chăm làng Bàu Trúc. Tuy đơn giản mà mặn mà. Nhìn bình thường mà cuốn hút.

Hai người phụ nữ Chăm đứng tạo dáng bên gốc cây (Ảnh: Nguyễn Văn Kự)

Bao đời nay, màu trắng luôn là màu chủ đạo trong bộ trang phục truyền thống của người Chăm. Và đây là một minh chứng rất rõ. Ảnh được chụp vào năm 1983 tại làng gốm Bàu Trúc.

Chân dung Cụ Đổng San, một vị chức sắc Chăm Bàlamôn ở Bàu Trúc. Bức ảnh được chụp năm 1983.

Nét đẹp duyên của phụ nữ Chăm ở thôn Phú Nhuận (Ảnh: Nguyễn Văn Kự)

Nét đẹp chân quê của phụ nữ Chăm Phan Rang (Ảnh: Nguyễn Văn Kự)

Hai bức ảnh trên được chụp vào năm 1983 tại làng Chăm Phú Nhuận. Trong ảnh là thể hiện cho vẻ đẹp thùy mị, nụ cười duyên dáng của phụ nữ Chăm khi khoác lên mình bộ trang phục truyền thống.

Song cùng với nghề làm gốm truyền thống Chăm làng Bàu Trúc. Nghề dệt thổ cẩm Chăm làng Mỹ Nghiệp là hai nghề lâu đời nhất hiện nay. Cũng như nghề làm gốm làng Bàu Trúc, người phụ nữ làng Mỹ Nghiệp khi sinh ra đã gắn bó cuộc đời mình với nghề dệt thổ cẩm bao đời.

Các cô gái Chăm với điệu múa quạt truyền thống, ảnh chụp tại Mỹ Nghiệp năm 1983. Với họ, âm nhạc là thứ không thể tách rời trong cuộc sống tinh thần, và đây cũng là điều tạo nên nét độc đáo trên nền văn hóa bản sắc của họ.

Thay mặt ban quản trị website chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tác giả Nguyễn Văn Kự và nhiều tác giả khác, là chủ nhân đã chụp những bức ảnh này. Cảm ơn anh Hồ Thái Kỳ (Facebook Hồ Thái Kỳ), chị Yến Mỹ (Facebook Yến Mỹ) đã đăng và share ảnh lên facebook để ban quản trị có thêm hình ảnh, tư liệu quý hoàn thành bài viết.

Để bài viết thêm phần hoàn hảo, ban quản trị website mong nhận được những ý kiến đóng góp, phản hồi từ quý đọc giả, quý anh chị, nhằm đưa đến cho đọc giả khắp nơi đang xem thông tin trên chúng tôi biết thêm nhiều điều hay, mới về nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Chăm tại Phan Rang – Ninh Thuận.

Nhật ký hành trình miền đất nắng

Đăng bởi: Trần Vũ Thiên Long

Từ khoá: Người Chăm Phan Rang xưa qua ánh nhìn từ những bức ảnh cũ

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhìn Ngắm Hán Phục Trong Các Triều Đại Trung Hoa Xưa trên website Xqai.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!