Bạn đang xem bài viết Sao Phải Đi Đâu Xa, Chỉ Cần Đến Làng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Là Có Ngay Bộ Ảnh Tuyệt Đẹp được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Xqai.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nếu chỉ nhìn lướt qua bộ ảnh của Phạm Lan Hương, nhiều người sẽ nghĩ ngay những bức hình được chụp ở đất nước xa xôi nào đó, Thái Lan, Ấn Độ hoặc Campuchia. Tuy nhiên, nó được chụp ngay ở một địa điểm du lịch rất gần Hà Nội – “Làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam”.
Sao phải đi đâu xa, chỉ cần đến Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là có ngay bộ ảnh tuyệt đẹpCảm nhận đầu tiên khi đến Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
“Mình rất bất ngờ vì không nghĩ bộ ảnh của mình nhận được nhiều sự quan tâm cũng như yêu thích của mọi người đến vậy”, cô gái chia sẻ.
Phạm Lan Hương hiện đang là chủ một cửa hàng trang điểm có tiếng tại Hà Nội, theo cô nàng 9x cho biết: “Khi đến Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam, điều mình thấy ấn tượng nhất phải kể đến khung cảnh nơi đây rất thơ mộng và đậm chất văn hóa của 54 dân tộc”.
Nếu bạn chỉ có một ngày hoặc ngại di chuyển xa thì đây là điểm đến phù hợp, đặc biệt là với những nhóm bạn.
Vì được xây dựng trên một ngọn đồi nhỏ với nhiều thung lung xung quanh nên ở đây có diện tích rất rộng rãi, thoáng đãng lên tới 1.500 ha, phù hợp cho những hoạt động giải trí tập thể.
Ngoài ra, với những gia đình có trẻ nhỏ, đây cũng là điểm đến lí tưởng trong những ngày lễ, hay cuối tuần.
Khu bảo tồn này là nơi tái hiện lại đời sống sinh hoạt của các dân tộc trên toàn lãnh thổ Việt Nam nên đến đây sẽ giúp các bé được học hỏi thêm nhiều bài học thực tiễn thú vị.
Bộ ảnh ‘gây bão’ mạng của Phạm Lan Hương.
Phương tiện di chuyển đến Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam nằm cách Hà Nội 40km và nằm trong khu du lịch Đồng Mô, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, thuận tiện để bạn di chuyển bằng xe máy, ô tô tự lái và xe bus.
Đối với phương tiện tự lái:
Từ Hà Nội các bạn đi thẳng hướng Đại lộ Thăng Long khoảng 36 km sẽ nhìn thấy biển chỉ dẫn lối đi Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ở vòng xuyến, đi theo lối ra thứ nhất là tới nơi.
Đối với phương tiện xe bus:
Nếu đi xe bus bạn có thể bắt các tuyến 75: BX Yên Nghĩa – BX Hương Sơn, giá vé 25.000 đồng/lượt; 71B: BX Mỹ Đình – BX Xuân Mai, giá vé 20.000 đồng/lượt hoặc 71: BX Mỹ Đình – BX Sơn Tây, giá vé 20.000 đồng/lượt.
Giá vé vào tham quan tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
Người lớn: 30.000 đồng/lượt.
Sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề có kèm thẻ sinh viên: 10.000 đồng/lượt.
Học sinh tại các cơ sở giáo dục phổ thông như các trường cấp 1, cấp 2, cấp 3: 5.000 đồng/lượt.
Trẻ em dưới 6 tuổi: Miễn phí.
Nằm cách Hà Nội khoảng 40 km, Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một gợi ý hay cho nhóm bạn, gia đình khi muốn du lịch trong ngày.
Với diện tích 1.500 ha nên khi đến đây bạn có thể tổ chức những hoạt động tập thể dễ dàng.
Hé lộ “mánh khóe” chụp ảnh khi đến Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Toàn bộ những bức hình của Lan Hương đều được chụp bằng điện thoại và có sử dụng một số ứng dụng chụp ảnh để bộ hình thêm lung linh.
Cô cho biết: “Mình có dùng một số ứng về ghép mây, kinh khí cầu (một trong những ứng dụng chụp hình đang được nhiều bạn trẻ yêu thích hiện nay)… mang đến những góc nhìn mới lạ cho bộ ảnh.
Bạn thấy đấy những khung cảnh mình đăng tải đều khiến bất kì ai liên tưởng đang lạc bước ở Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia…” – Lan Hương bày tỏ.
Để những bức hình thật sự ấn tượng thì ngoài kĩ năng chụp và chỉnh ảnh, Lan Hương cho biết thêm:
“Bản thân mình là một người khá chỉnh chu về mọi thứ. Nên trước khi đi đâu mình tìm hiểu rất kĩ xem trước khung cảnh ở đó như thế nào từ những bài phản hồi của các bạn đã đi trước.
Từ đó định hướng phong cách khi đến đó và lời khuyên cho các bạn trẻ là nếu di du lịch hãy xác định theo một phong cách và đầu tư cho nó thì bộ ảnh đó sẽ đạt hiệu quả rất cao.
Thế mới thấy, cần gì phải đi đâu xa xôi, chỉ cần đến ngay Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam cùng một “phó nháy có tâm” là bạn đã có ngay một bộ ảnh “ảo diệu” rồi.
Đăng bởi: Đặng Nhật Vi
Từ khoá: Sao phải đi đâu xa, chỉ cần đến Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là có ngay bộ ảnh tuyệt đẹp
Làng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Dịp 30/4
Dịp lễ 30/4-1/5 năm nay, du khách đến thăm Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Hà Nội) sẽ có dịp tham dự vào nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc.
Dịp lễ 30/4-1/5 năm nay, du khách đến thăm Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Hà Nội) sẽ có dịp tham dự vào nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc.
Du khách sẽ được đắm mình trong sắc màu và các đường nét hoa văn của những bộ váy áo và khăn đội đầu sặc sỡ, những âm thanh vui nhộn, réo rắt với nhiều sắc thái khác nhau của các loại nhạc cụ vô cùng độc đáo cùng một quần thể kiến trúc đa dạng được phục dựng một cách hết sức kỳ công theo nguyên bản bởi bàn tay khéo léo, tài tình của các nghệ nhân dân gian.
Tất cả tạo nên đặc trưng của một không gian lễ hội văn hóa mang tầm vóc quốc gia của đồng bào các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là các dân tộc thiểu số trên khắp mọi miền đất nước mang về đây vừa góp vui chung, vừa để phục du khách và đồng bào cả nước.
Một hoạt động tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Điểm nhấn thứ nhấtLàng văn hóa các dân tộc Việt Nam tọa lạc trên một khu đất rộng tại Đồng Mô, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50km về hướng tây, trong quần thể du lịch nổi tiếng của Hà Nội với các địa danh như: Suối Hai, Khoang Xanh, Đá Chông, Ba Vì… Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một dự án do bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm chủ đầu tư có tổng diện tích 1.544ha với tổng vốn đầu tư lên đến 3.200 tỷ đồng, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ những năm đầu thế kỷ XXI và đến tháng 10/2010 bắt đầu đi vào hoạt động. Tuy đến nay Làng Văn hóa này vẫn còn một số hạng mục chưa hoàn thành, nhưng đây vẫn là một điểm đến hấp dẫn và thích hợp vào dịp kỷ niệm Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 và vào dịp nghỉ Lễ 30/4 và 1/5 hàng năm.
Trên thực tế Lễ hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam, năm 2023 được diễn ra tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam kéo dài trong suốt tháng tư từ ngày 1/4 đến hết ngày 2/5, với hai thời gian cao điểm là 19-23/4 kỷ niệm Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam và 29/4-02/5 kỷ niệm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước 30/4 và Quốc tế Lao động 01/5.
Các hoạt động trong dịp này với sự tham gia của khoảng 1.170 người của 14 dân tộc, từ 14 tỉnh/thành trên khắp cả nước, gồm: dân tộc Mường (Hòa Bình), dân tộc Thái, Thổ (Nghệ An), dân tộc Khơ Mú (Điện Biên), dân tộc Dao (Hà Nội), dân tộc Tày (Thái Nguyên), dân tộc Ê Đê (Đắk Lắk), dân tộc Tà Ôi (Thừa Thiên Huế), dân tộc Khmer (Sóc Trăng), dân tộc H’rê (Quảng Ngãi), dân tộc Gia Rai (Gia Lai), dân tộc Cơ Tu (Quảng Nam), dân tộc Lô Lô (Hà Giang) và các dân tộc Thái, Mông, Dao (Sơn La)…
Ngay sau lễ khai mạc là một chương trình nghệ thuật đặc sắc mang tên Giai điệu từ núi rừng, cùng với đó là trưng bày, triển lãm và trình diễn Tre, nứa trong đời sống âm nhạc dân tộc Việt Nam; các lễ hội truyền thống dân tộc, thực hành nghi lễ và trò chơi kéo co, hoạt động của đồng bào dân tộc; chương trình âm nhạc dân tộc; giới thiệu đồ thủ công mỹ nghệ từ tre, nứa đến từ mọi miền của Tổ quốc.
Lễ hội Katê tại Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam.
Điểm nhấn thứ haiĐặc biệt trong tháng lễ hội Sắc màu văn hóa các dân tộc Việt Nam có sự tham gia của khoảng 120 đại biểu là các già làng, trưởng bản, nghệ nhân dân gian nổi tiếng của các dân tộc đến từ chín tỉnh, thành phố, đại diện cho các dân tộc và vùng, miền tiêu biểu trong cả nước với nhiều hoạt động phong phú và hấp dẫn.
Cũng trong thời gian này, tại các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng tổ chức nhiều hoạt động nhân Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam với nội dung phong phú và sôi động, tôn vinh văn hóa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thông qua các hoạt động trong suốt tháng Sắc màu văn hóa các dân tộc từ đầu tháng 4 đến ngày 2/5 tại Làng Văn hóa du lịch các Dân tộc Việt Nam, du khách sẽ được giới thiệu những nét văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc tại Ngôi nhà chung của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam anh em, góp phần quảng bá, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc.
Hơn thế nữa, ngoài tư cách là một Lễ hội văn hóa thường niên, thì đây còn là một cơ hội tốt thông qua các hoạt động văn hóa để tạo dựng và khẳng định sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, cũng như trong hòa bình dựng xây cuộc sống mới hôm nay, nhất là trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5.
Đăng bởi: Tuấn Phương
Từ khoá: Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam dịp 30/4-1/5 có gì thú vị?
9 Hòn Đảo Tuyệt Đẹp Tại Việt Nam Phải Đi Ngay Hè Này
Mùa hè đến đồng nghĩa với việc du lịch biển, đảo trở thành xu hướng được nhiều người ưa chuộng. Nếu bạn vẫn còn bỏ ngỏ điểm đến cho chuyến đi sắp tới đừng quên tham khảo 9 hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam tới đây!
List 9 hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam 1. Đảo Cô TôĐảo Cô Tô thuộc tỉnh Quảng Ninh, chỉ cách cảng Cái Rồng khoảng 3 giờ đi tàu. Tới Cô Tô du khách sẽ kinh ngạc bới vẻ đẹp hiếm có: nước biển trong vắt, nhiều bãi đẹp và nổi tiếng như Hồng Vàn, Vàn Chảy, bãi đá Cầu Mỵ… Nhiều người lại thích tới Cô Tô Con – hòn đảo nhỏ không người sinh sống hoặc check-in tại ngọn hải đăng Cô Tô.
Cùng nhóm bạn du lịch Cô Tô
Để tham quan và khám phá 1 trong 9 hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam này cần dành khoảng 1 đến 2 ngày và cần chuẩn bị một sức khỏe tốt với đôi chân dẻo dai để đạp xe quanh đảo. Buổi sáng đi chợ hải sản mua mực, sò, ngao… rồi để sẵn là tối về đã có ngay bữa BBQ ngon miệng cùng bạn bè. Ngoài ra, Cô Tô cũng phù hợp để tổ chức các trò chơi teamwork và tham gia các hoạt động thể thao, chơi không ngừng nghỉ ở Cô Tô Park.
Hàng loạt các resort thiết kế độc đáo, có không gian thưởng thức ẩm thực ngay trên bờ biển và giá cả hải sản hợp lý cũng là những điểm mạnh của du lịch Cô Tô.
2. Đảo Quan LạnĐảo Quan Lạn cũng là 1 điểm đến của tỉnh Quảng Ninh, thuộc tuyến đảo Vân Hải, sát vịnh Bái Tử Long. Từ cảng Cái Rồng ở thị trấn Vân Đồn, ngoài đi tới Cô Tô du khách cũng có một đường đi đảo Quan Lạn.
Khác với Cô Tô, Quan Lạn không nhộn nhịp du lịch, các bãi tắm hầu như còn rất hoang sơ và chưa được khai thác nhiều. Nhờ vậy môi trường sinh thái cũng không bị ô nhiễm.
Không khí trong lành trên đảo Quan Lạn
Đảo Quan Lạn có 3 bãi biển lớn với bờ biển dài, các dãy núi hình cánh cung ôm lấy tạo nên một bức tường thành ngăn sóng gió từ biển khơi, bãi biển cát mịn và nước nông thoai thoải. Không còn gì thú vị hơn khi tới hòn đảo này yên bình ngắm hoàng hôn – lúc tất cả hiện lên như một bức tranh sống động với màu sắc cực đẹp. Các bãi tắm nên ghé: Bãi Sơn Hào, bãi Minh Châu.
Thêm vào đó công trình chùa Quan Lạn, nghè Quan Lạn cũng là một điểm nhấn nếu bạn là vị khách sùng Đạo.
3. Đảo Cát BàCát Bà là tên hòn đảo nổi tiếng với tiềm năng du lịch lớn tại Hải Phòng. Nơi đây có những bãi biển đẹp và quần đảo hoang sơ, đặc biệt vịnh Lan Hạ phía đông bắc đảo được ví như “thiên đường bị bỏ quên” của miền Bắc với cảnh quan hùng vĩ, tráng lệ.
Đến đảo Cát Bà du khách đừng bỏ lỡ cơ hội tắm trên những bãi biển đẹp nhất miền Bắc, các bãi Cát Cò 1,2,3. Trong đó, bãi Cát Cò 2 được yêu thích hơn cả khi sở hữu làn nước trong xanh, bãi cát trắng trải dài. Các hoạt động thú vị khác tại đảo Cát Bà là: tham quan vịnh Lan Hạ bằng thuyền kayak, check-in tại chài cổ Cái Bèo và làng Việt Hải, ngắm cảnh từ Pháo đài Thần Công, khám phá Vườn quốc gia Cát Bà và Đảo Khỉ.
Ẩm thực Cát Bà phong phú với nhiều món đặc sản biển như bún tôm, rắn biển, sam 7 món, tu hài, ghẹ xanh… giá cả của chúng thuộc top “bình dân” bất kể mùa nào trong năm.
4. Cù Lao ChàmVịnh Lan Hạ – đảo Cát Bà
Cù lao Chàm cách Hội An khoảng 15km, để đến đây bạn đi bằng tàu thường hoặc ca nô. Cù lao có 8 đảo gần nhau; Hòn Lao có bãi Làng, bãi Hương hay hoang sơ hơn là bãi Chồng, bãi Xếp. Với lợi thế nước ngọt được cung cấp quanh năm từ các khe suối, nên không quá bất ngờ khi tại Cù Lao Chàm du khách thấy lúa nước; cây trái, hoa lá cũng sum suê tươi tốt.
Trên đảo Cù Lao Chàm – Quảng Nam
Đến cù lao Chàm, dịch vụ được yêu thích nhất là lặn biển ngắm san hô, ngoài ra xem người dân địa phương làm ruộng , khám phá ẩm thực phong phú từ mực một nắng, bào ngư, cua đá…thơm ngon.
Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2009.
5. Đảo Lý SơnLý Sơn là huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi, là một địa danh hút khách không chỉ mùa hè. Từ cảng Sa Kỳ ra đảo mất khoảng 1 giờ đồng hồ đi tàu, giá vé khoảng 95,000VNĐ/lượt.
Lý Sơn nổi tiếng với những ngọn núi nhô ra giữa trời và đất rất lý tưởng để trở thành back-ground cho những tấm hình siêu ảo.
Một trong 9 hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam có các công trình: cổng Tò Vò, Quan Âm Đài, chùa Hang, Hang Câu và cột cờ Tổ quốc trên đỉnh Thới Lới… Các bãi biển đẹp tập trung ở đảo Bé, rất hoang sơ và yên bình, chưa được khai thác du lịch nhiều nên yên tâm thư giãn cùng bạn bè, đồng nghiệp.
Đặc sản Lý Sơn là tỏi cô đơn, ngoài ra còn có ốc tượng, cua huỳnh đế, cá tà ma…
6. Đảo Bình BaLý Sơn là một trong những hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam. Ảnh: Hải Lê Cao
Đảo Bình Ba (Khánh Hòa) mới được khai thác du lịch trong vài năm trở lại đây nên dịch vụ khá rẻ, chỉ cách cảng Cam Ranh khoảng 15km, du khách thường đến đây vào bất cứ mùa nào trong năm.
Bình Ba nổi tiếng với những bãi biển trong vắt như bãi Chướng, bãi Nồm và bãi Nhà Cũ,… Thư giãn trên biển, ngắm bình minh lên hoặc lặn ngắm san hô, câu cá là những hoạt động phổ biến.
Đặc sản trên đảo Bình Ba là tôm hùm.
7. Côn ĐảoSống ảo trên đảo Bình Ba
Côn Đảo là hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam nằm trong địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nếu di chuyển bằng đường bay bạn có thể tới ngay Côn Đảo nhưng di chuyển bằng phương tiện khác bạn phải qua Vũng Tàu.
Hệ thực vật phong phú tại Côn Đảo
Đến Côn Đảo, bạn trải nghiệm tour viếng nghĩa trang Hàng Dương thắp nhang cho những anh hùng liệt sỹ lúc 12 giờ đêm, nghe có vẻ “rùng rợn” nhưng lại rất hút khách, đặc biệt là đối với những người lớn tuổi, những người quan tâm tới lịch sử nước nhà. Ngoài ra, bãi Đầm Trầu – bãi biển đẹp nhất Côn Đảo, hòn Bảy Cạnh là nơi lý tưởng để bạn dừng chân.
Tới hiện nay Côn Đảo vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên của nó dù các khu nghỉ dưỡng đã mọc lên rất nhiều.
8. Đảo Phú QuốcĐảo Phú Quốc được mệnh danh là “Đảo Ngọc” của Việt Nam, nơi đây từng lọt top 3 điểm đến du lịch đẹp nhất mùa đông do National Geographic bình chọn. Du lịch Phú Quốc, du khách đắm mình trong không gian mênh mông sóng nước, tận hưởng những giây phút nghỉ ngơi trên các bãi tắm đẹp, cát trắng mịn màng, khung cảnh thơ mộng bình yên. Các bãi biển đẹp nhất phải kể đến bãi Sao, bãi Dài và hàng chục bãi biển hoang sơ khác. Tại đây du khách thỏa sức trải nghiệm lặn ngắm san hô, câu mực, ngắm mặt trời lặn ở dinh Cậu hay chạy xe xuyên rừng quốc gia đầy hấp dẫn.
Hải sản đảo Phú Quốc phong phú với các món như cầu gai, sò quạt, ốc nhảy, cá bớp, cá trích…
9. Đảo Nam DuCác dịch vụ giải trí, thư giãn đã được khai thác mạnh tại Phú Quốc
Cùng thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang nhưng du lịch đảo Nam Du (huyện Kiên Hải) còn khá hoang sơ và chưa được khai thác triệt để như Phú Quốc. Đó cũng có thể được coi như một nét đặc biệt của đảo cùng với giá cả dịch vụ du lịch và khách sạn rất rẻ.
Bạn có thể tắm biển ở bãi Cây Mến, bãi Ngự. Sau đó đi tham quan Hải Đăng Nam Du, đi thuyền ra các hòn lân cận như hòn Mấu, hòn Ngang… rồi về thưởng thức các món hải sản cùng những người dân hiền lành, vui tính.
Đăng bởi: Lâm Bùi
Từ khoá: 9 hòn đảo tuyệt đẹp tại Việt Nam phải đi ngay hè này
Đến Ngay Cầu Bạch Hổ Huế Săn Ảnh Tuyệt Đẹp Như Phim Điện Ảnh
Cầu Bạch Hổ là cây cầu đường sắt có tuổi đời hơn một thế kỷ ở vùng đất cố đô Huế. Không chỉ có giá trị về lịch sử, cầu Bạch Hồ còn là một điểm đến với nhiều góc sống ảo thần thánh dành cho các tín đồ du lịch.
Cầu Bạch Hổ là một trong những điểm du lịch Huế đang rất hot hiện nay sau hiệu ứng thành công của một số bộ phim nổi tiếng. Cầu Bạch Hổ ở Huế còn thu hút du khách thập phương bởi những giá trị lịch sử độc đáo trong hơn 100 năm qua.
1. Cầu Bạch Hổ và câu chuyện “đặc biệt” về cái tênCầu sắt Bạch Hổ là bối cảnh đẹp, ấn tượng trong nhiều bộ phim nổi tiếng như Mắt biếc, Gái già lắm chiêu. Với vẻ đẹp cổ kính cùng những góc sống ảo cực “chill” của cây cầu có tuổi đời hơn một thế kỷ, cầu sắt Bạch Hổ đã trở thành địa điểm du lịch Huế được rất nhiều bạn trẻ “săn lùng” hiện nay.
1.1. Cầu Bạch Hổ, cầu Dã Viên có phải là một?Cầu sắt Bạch Hổ là di tích quan trọng gắn liền với xứ Huế cũng như lịch sử ngành đường sắt Việt Nam. Cầu được xây dựng cùng thời điểm thiết lập tuyến đường sắt Huế – Quảng Trị.
Đến năm 2009, song song với cầu sắt Bạch Hổ, một cây cầu mới có tên gọi là cầu đường bộ Bạch Hổ đã được khởi công xây dựng. Tháng 8/2012 đã diễn ra sự kiện khánh thành cầu Bạch Hổ Huế. Đến tháng 12 cùng năm, cây cầu này được đổi tên là cầu Dã Viên.
Theo phong thủy của Kinh thành Huế (tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ) thì cồn Hến được coi là yếu tố “Thanh Long” nằm bên trái và cồn Dã Viên là yếu tố “Bạch Hổ” nằm ở bên phải. Do vậy, dù cầu Dã Viên và cầu sắt Bạch Hổ thực chất là hai cây cầu riêng biệt nhưng người dân ở đây vẫn gọi chung là cầu Bạch Hổ.
1.2. Cầu Bạch Hổ, cầu Dã Viên ở đâu?
Cầu Bạch Hổ
Nằm đối diện với cầu Tràng Tiền, cầu Bạch Hổ trải mình trên sông Hương thơ mộng, nối bờ phía Bắc sông Hương tới cồn Dã Viên – một cồn nhỏ sa bồi nằm ở phía Tây Nam Kinh thành Huế. Cầu Bạch Hổ hiện có chiều dài 302,1m.
Cầu Dã Viên:
Cầu Dã Viên là cây cầu bắc qua sông Hương, nối liền đường Lê Duẩn với đường Bùi Thị Xuân, thuộc địa bàn phường Phú Thuận và phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cầu hiện có chiều dài là 102,7m.
*** Dẫn đường: Theo bản đồ du lịch Huế, từ Ngọ Môn Đại Nội Huế rẽ phải ra Lê Duẩn tới vòng xoay Lê Duẩn – Kim Long chính là chân cầu Bạch Hổ.
2. Cầu Bạch Hổ – Lịch sử trăm năm cầu sắt ở HuếÍt ai biết rằng cây cầu Bạch Hổ với hơn 100 năm tuổi, đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm và chứng kiến những sự kiện quan trọng của Huế.
Năm 1908, cây cầu bắt đầu được khởi công xây dựng.
Năm 1946, cầu sắt Bạch Hổ bị giật mìn đánh gãy. Sau khi tu sửa, đến mùa xuân năm Mậu Thân 1968, cầu tiếp tục bị giật mìn thêm lần nữa.
Cuối thập niên 1990, cầu bị xuống cấp trầm trọng do thời gian dài hoạt động. Có những giai đoạn, cầu Bạch Hổ thành phố Huế phục vụ cho cả tàu hỏa lẫn ô tô lưu thông.
3. Tham quan gì xung quanh cầu Bạch Hổ ở Huế? 3.1. Cầu Bạch Hổ và những góc check-in đẹp như phimSẽ không sai chút nào khi nói cầu Bạch Hổ phường Đúc thành phố Huế Thừa Thiên Huế là điểm check-in cực chất dành cho du khách thập phương. Cầu được chia làm 2 bên, một bên dành cho người đi bộ, một bên dành cho đường sắt nên sẽ có nhiều góc chụp khác nhau. Nếu may mắn chụp ảnh đúng lúc có đoàn tàu chạy qua, chắc chắn bạn sẽ có những bức ảnh “để đời”.
Nổi bật ở phía cuối cầu là một tòa tháp nước bề thế của nhà máy nước Dã Viên (nay đã tạm dừng hoạt động). Vì được xây dựng từ năm 1957 nên đến nay, tòa tháp này đã nhuốm màu thời gian. Chính điều này đã làm tăng thêm vẻ cổ kính, trầm mặc nơi đây.
Thêm một góc view cực xịn đó là đoạn giao nhau giữa cầu Bạch Hổ và cầu Dã Viên. Chụp hình ở đây chắc chắn sẽ mang đến bạn những khung hình chất lừ.
3.2. Ngắm sông Hương và xem tàu chạy ở cầu Bạch HổNgắm sông Hương từ cầu Dã Viên ở Huế rực rỡ vô cùng! Nếu nhìn về phía hạ nguồn, bạn sẽ thấy xa xa sông Hương uốn lượn vào con phố, hai bờ Nam – Bắc thẳng tắp những hàng cây. Còn nếu nhìn về thượng nguồn, dòng sông nhuốm màu nắng sáng rực. Hình ảnh đoàn tàu chạy qua cầu Bạch Hổ như một nét chấm phá, tạo thành điểm “động” trong bức tranh sông Hương tĩnh lặng.
3.3. Ghé thăm “hàng xóm” cầu đi bộ Bạch HổNgay bên cạnh cầu sắt Bạch Hổ chính là cầu đi bộ Bạch Hổ (cầu Dã Viên). Nếu bạn đã từng xem phim “Gái già lắm chiêu” phần 5 thì sẽ thấy cảnh vật thiên nhiên được lấy ở nơi này rất đẹp, hữu tình và thơ mộng. Đây là cây cầu duy nhất tại Huế được thiết kế độc đáo với 5 nhịp và 6 vọng lâu ngắm cảnh. Du khách có thể tránh nắng, tránh mưa và thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ ở cây cầu độc đáo này.
Để thuận tiện cho chuyến tham quan cầu Bạch Hổ cùng nhiều điểm du lịch nổi tiếng của Kinh thành Huế như: Điện Hòn Chén, Hồ Thủy Tiên, chợ Đông Ba, chùa Thiên Mụ Huế,…du khách có thể nghỉ dưỡng tại khách sạn Vinpearl Hotel Huế.
Đăng bởi: Trường Vương
Từ khoá: ĐẾN NGAY cầu Bạch Hổ Huế săn ảnh TUYỆT ĐẸP như phim điện ảnh
8 Bài Văn Thuyết Minh Về Món Bánh Mang Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Hay Nhất
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh trôi
Cứ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, mọi người lại làm bánh trôi, bánh chay. Đây là một phong tục cổ truyền rất quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.
Nguyên liệu để nấu bánh rất thông dụng, quen thuộc. Trước tiên, chúng ta phải có gạo nếp ngon. Có thể trộn thêm gạo tẻ nhưng gạo nếp vẫn phải chiếm đa số. Có gạo làm vỏ bánh, cần có thêm đường làm nhân để tạo vị ngọt cho bánh. Nhân bánh truyền thống là bằng mật có vị thơm đậm đà. Ngày nay, nhiều gia đình dùng đường phèn có vị thơm mát. Để làm nhân bánh chay, chúng ta cần đậu xanh xay nhuyễn. Ngoài ra, cần một ít vừng, cùi dừa để rắc lên hai loại bánh.
Cách làm bánh khá đơn giản. Đầu tiên là ngâm gạo khoảng 6 đến 8 tiếng sau đó vo gạo. Vo xong, đổ gạo ra xay nước. Chú ý là không được xay khô vì như thế sẽ làm vụn gạo và các hạt sau khi xay sẽ to nhỏ không đều nhau. Xay xong đổ tất cả bột vào túi vải, buộc chặt, lấy tay nén từ từ, nhẹ nhàng để vắt nước ra. Tránh ấn mạnh tay sẽ làm bung túi vải. Nén hết nước, ta sẽ có một thứ bột dẻo để làm vỏ bánh.
Tiếp theo sẽ là bước nặn bánh. Bánh trôi được nặn tròn, to vừa phải. Cho một viên đường vào trong, nặn bột bao kín để khi luộc, đường không chảy ra. Nhân bánh chay là đậu xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín, xay nhuyễn. Bánh và nhân phải theo một tỉ lệ hợp lí. Không nên để bánh hay nhân quá to hoặc quá nhỏ sẽ làm mất ngon khi ăn.
Tinh tế nhất là luộc bánh. Đun sôi nước rồi mới thả bánh vào. Đợi đến lúc bánh nổi lên trên mặt nước, nhẹ nhàng vớt lấy rồi thả ngay vào nước sạch và lạnh. Nếu để nóng quá lâu bánh sẽ bị chảy, không dẻo và ngon.
Thưởng thức bánh trôi, bánh chay là cả một nghệ thuật. Bánh trôi được bày vào đĩa, rắc lên trên một lớp vừng mỏng và một chút sợi cùi dừa. Bánh chay được bày trong bát. Đun nước đường pha với bột sắn rồi chan ngập mặt bánh. Ở trên rắc một ít hạt đậu xanh chín xay vỡ đôi đã đãi sạch vỏ. Màu trong của bánh, của nước dùng hài hòa với màu vàng tươi của hạt đậu xanh trông thật đẹp mắt. Đây đều là hai loại bánh ăn nguội. Bánh trôi cho vào miệng, ngậm lại rồi cắn sẽ cảm nhận được vị ngậy của gạo, vị ngọt của đường. Còn bánh chay, dùng thìa xúc miếng bánh, cắn nhẹ sẽ thấy vị ngọt mát, thơm dẻo. Với cả hai loại bánh, nếu thích, có thể cho thêm chút tinh dầu hoa bưởi.
Bây giờ, người ta không tự làm bánh nhiều như trước mà phần lớn đều đi mua khi cần. Nhưng phải tự tay mình nấu rồi thưởng thức mới cảm nhận hết cái ngon của bánh. Bánh trôi, bánh chay sẽ mãi là hai món ăn truyền thống đặc sắc của người Việt Nam.
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh cuốn Thanh TrìBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh trôi
Từ Bắc tới Nam đất nước đâu đâu cũng có lúa gạo, có bánh cuốn, bánh tráng nhưng có lẽ bánh cuốn Thanh Trì của Hà Nội vẫn đặc sắc hơn cả: lá bánh cuốn mỏng tang như một lớp lụa mịn màng.
Mỗi lá chỉ cần thoa thêm chút mỡ, rác chút hành khô phi thơm là nổi vị bát nước chấm thơm vị cà cuống đặc trưng đã làm nên phong vị đặc sắc của bánh cuốn Thanh Trì.
Đặc sản của một vùng quê:
“Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Cỏ gò Ngũ Nhục có con sông Hồng”
Làng Thanh Trì là một làng vào loại cổ nhất của Thăng Long – Hà Nội. Hàng năm, cứ vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, dâu làng Thanh Trì lại mở hội, trong hội có cuộc thi tráng bánh cuốn giữa các thôn trong làng. Trong cuộc thi, mỗi đội phái tráng cả bánh cuốn lá lẫn bánh cuốn nhân. Ban giảm khảo là những cụ cao niên trong làng và đại diện chính quyền địa phương sẽ chấm điểm cho mỗi đội dựa theo quy định: các đội phải làm theo đúng phương pháp cổ truyền, trong một thời gian quy định, đội nào tráng được nhiều bánh, bánh mỏng, dẻo, có sắc trắng mịn cùng nước chấm ngon, trình bày đẹp sẽ đạt giải. Theo thần tích của địa phương, nhân dân đã tụ họp về đây khai khẩn đất từ thời Hùng Vương, An Quốc, Con trai vua Hùng thứ 18 (là bạn của Sơn Tinh) đã từng dựng dinh thự, dạy dân cày cấy sống giữa vùng ao hồ rộng lớn, hai phần ba dân làng sống bằng nghề làm bánh cuốn. Bánh được làm từ những loại gạo ngon, xay mịn như nước, lá bánh mỏng tang như tờ giấy, được thoa thêm một chút mỡ phi hành cho thơm. Bánh cuốn Thanh Trì bao đời nay đã là niềm tự hào của người dân nơi dây.
“Múc lưng muôi bột giàn đều trên khuôn vai, đậy nắp vung lại. Đợi khi mỡ nấp vung ra, mặt bánh phồng lên tức là bánh đã chín. Sau lấy que tre xọc ngang, nguyên một tờ gạo mong manh được nhác ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại…”. Chẳng thế mà những nhà văn nhu Thạch Lam hay Vũ Bằng đều dành cho bánh cuốn Thanh Trì một sự ưu ái riêng…
Thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi, anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi. nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ…nhớ quá, nhớ khôn nguôi!” (Miếng ngon Hà Nội – Vũ Bằng)
Cho dù ngày hôm nay, các công đoạn làm bánh cuốn đã dược cơ hóa thế nhưng trong hội làng, người dân Thanh Trì vẫn phải chế biến theo lối cổ – nghĩa là bội vần được xay từ những chiếc cối đá làm từ đá xanh Thanh Hóa. Và để bánh mỏng tang, trắng mịn thì chậu bột được pha theo một tỷ lệ riêng cua mỗi người.
Cũng thật lạ, bánh cuốn Thanh Trì nguyên liệu chẳng có gì cao sang hay pha chế biến cầu kỳ bởi chỉ cỏ bột xay. nhân làm bằng hành hoa tươi chưng với mỡ hay nhân bánh bằng mỡ thăn cùng hành khô chưng lên để có mùi thơm nhưng làm ẩm khách nhớ khôn nguôi khi thưởng thức.
Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, sắc trắng của bánh nổi bật lên một cách hiền lành cùng những đốm nhân màu nâu đỏ cua hành phi. Nhìn những thếp bánh mới làm óng ả có thể làm bất cứ ai trông thấy thôi cùng thấy thèm.
Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, gạo có ngon thì mặt bánh mới láng mượt, óng ả. Nếu gạo quá dẻo thì bánh nát, còn gạo kém thì bánh sẽ không thơm ngon. Và không thể quên khâu quan trọng là bột. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như cậy. Nếu bột loãng quá bánh sẽ nát, mà đặc quá bánh sẽ dày mình, ăn thô thì đâu được gọi là bánh Thanh Trì.
Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Sở dĩ bánh cuốn tráng từ chiều cho tới đêm bởi bánh tráng xong phải để qua đêm thì mới bay đi mùi nồng của bột. Đến sáng bánh vừa mềm. vừa thơm mát mùi gạo…
Người làng Thanh Trì xưa chỉ đội thúng bánh cuốn trên đầu rồi đi rong phố phường. Bây giờ nhiều người làng Thanh Trì vẫn đạp xe đi bán hàng rong Không gì thú vị bằng được thưởng thức đĩa bánh cuốn nóng còn vương sợi trong cái giá lạnh của mùa đông. Ngắm nhìn bàn tay khéo léo của chị chủ quán đang thoăn thoắt tráng từng chiếc bánh, cuộn nhân lại trong không gian mờ hơi nước từ nồi tráng bánh bay lên giúp những ai đang lạnh giá cũng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ở Hà Nội có một cửa hàng nhỏ bán bánh cuốn Thanh Trì mang cả hương vị của riêng của Hà Nội. Dù chỗ ngồi chẳng đủ, người nọ phải đợi người kia nhưng khách hàng đều chấp nhận để được thường thức một xuất bánh cuốn đúng như vị Thanh Trì.
Bánh Thanh Trì thơm dịu được chấm với nước chấm được pha rất hài hoà. không quá chua cũng không quá mặn và thêm vài lát chả. Chắc chắn, ai đã thưởng thức một lần thì sẽ không thể quên được mùi vị ngon lành đó.
Bánh cuốn nóng nhân thịt được “kế thừa” từ bánh cuốn Thanh Trì mà ra. Những chiếc bánh cuốn nóng óng mượt vỏ bóng mỏng tang, ỏng như lụa để khoe lớp nhân thịt cùng nấm hương ẩn hiện bên trong. Rồi rau thơm Láng, giò chả Ước Lễ trong một bát nước chấm ngon cũng là để tăng thêm mùi vị cho đĩa bánh cuốn nóng. Ngần đó thức dùng trong món bánh cuốn nóng đã cho ta thấy sự trau chuốt của người bán hàng trong món ăn của mình… Sau đó, bánh được tô điểm thêm bằng hành phi vàng thơm nức và chút ruốc tôm hồng như phấn làm đẹp thêm những chiếc bánh cuốn trắng.
Một đĩa bánh cuốn nóng sẽ có mùi hương của gạo mới, độ dẻo vừa phải cả miếng bánh ăn kèm với lát chả quế ngầy ngậy điểm thêm vài nhánh rau ngỏ. rau húng thơm.
Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha sao để mà dậy được cái mùi cà cuống lên thì thật là tuyệt vời. Dù là bánh cuốn nguội Thanh Trì hay bánh cuốn nóng thì cần phải có nước chấm vừa miệng. Pha nước chấm thế nào là bí quyết riêng của mỗi cửa hàng mà họ luôn giữ kín công thức. Chỉ biết rằng, khách tới những cửa hàng bánh cuốn ngon đều mê mẩn thứ nước màu hổ phách thơm dịu đó.
Theo những người bán hàng thì nước chấm bánh cuốn không thiên về vị chua mà cần cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường. Chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. Có lẽ vì bánh cuốn vốn mềm mại, thanh mát nên nước chấm đi cùng cũng dìu dịu như vậy để hài hoà.
Trước đây, người Hà Nội thường ăn bánh cuốn với đậu làng Mơ rán giòn, nhưng giờ đây bánh cuốn thường được ăn với giò chả của vùng Ước Lễ – Hà Tây. Chả quế Ước Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn. Chả quê thơm hương vị quế rừng, hương vị thịt nướng thuở hoang sơ, giò lụa thoáng hương chuối quê đồng nội. Ăn miếng chả quế dậy mùi thơm thịt nướng, hương vị cay hấp dẫn của quế chi, ngọt của mật ong, phảng phất mùi thơm quí phái.
Những chiếc bánh cuốn ngon đặc biệt ở độ nóng, giòn và dai của bánh, ở vị thơm của hành phi, vị mặn – ngọt của nước chấm, và với một chút rau thơm, rau mùi, vài ba miếng chả cùng 1-2 giọt tinh dầu cà cuống vừa thơm vừa cay. Không cao sang, cầu kỳ, bánh cuốn là một món ăn bình dị, thân quen đối với mọi đối tượng thực khách, từ sang trọng cho đến tầng lớp bình dân. Có thể vì thế mà những người Hà Nội đi xa hay những người từ xa tới với Hà Nội đều có chung một nhận xét rằng: Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon và một trong những, món ăn để lại niềm thương, nỗi nhớ đó là bánh cuốn.
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh cuốn Thanh Trì
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh tráng trộn Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh chưng gù Hà GiangBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh tráng trộn
Nhắc đến dân tộc Việt Nam, người ta không thể quên đi đây là một trong những dân tộc nổi tiếng về nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Một trong những món ăn nổi tiếng mà người Việt Nam muốn giới thiệu đến du khách thế giới đó là món bánh trưng gù của tỉnh Hà Giang.
Đất Việt, dải đất hình chữ S với lịch sử ngàn năm văn hiến, phải chăng đây chính là lý do tạo nên nét độc đáo, đặc sắc, đặc thù cho từng vùng miền, từng dân tộc trải dài khắp đất nước? Ngoài những nét tinh hoa tựu chung của cả dân tộc, thì mỗi một tỉnh thành mỗi một vùng đất lại mang một bản sắc riêng, và đó chính là cội nguồn cho cái hồn – vẻ đẹp tiềm ẩn – của đất nước Việt Nam. Đã là con dân đất Việt hẳn không ai trong chúng ta còn xa lạ với Sự tích Hùng Vương, Sự tích bánh chưng bánh giầy. Đúng vậy, bánh chưng chính là một món bánh cổ truyền quen thuộc trong mỗi dịp Tết Nguyên Đán của người Việt Nam. Tuy nhiên dọc theo dải đất hình chữ S, chúng ta không khó có thể bắt gặp rất nhiều dạng khác nhau của món bánh này, ví như miền Bắc là bánh chưng vuông, thì xứ Nghệ xứ Thanh cho tới Đất Mũi lại là bánh tét hình trụ dài. Đặc biệt hơn nữa chúng ta phải kể đến bánh chưng của các dân tộc thiểu số mà tiêu biểu là món “Bánh chưng gù” của dân tộc Tày ở tỉnh Hà Giang địa đầu Tổ quốc.
Cũng như các dân tộc khác, người Tày cũng sẽ chuẩn bị gói “Bánh chưng gù” vào mỗi dịp Tết cổ truyền trong năm. Bánh chưng người Tày nói riêng hay bánh chưng Việt nói chung đều được làm từ những nguyên liệu hết sức quen thuộc, gần gũi với mỗi chúng ta như gạo nếp, thịt lợn và đậu xanh kết hợp cùng một số gia vị để làm dậy lên mùi thơm cũng như hương vị đặc trưng của bánh. Tuy nhiên, do thổ nhưỡng khí hậu đặc trưng của từng vùng miền mà nguyên liệu của mỗi nơi sẽ mang một hương vị rất khác, rất riêng biệt. “Bánh chưng gù” của người Tày được làm từ gạo nếp nương (thường là gạo nếp Bắc Mê) do người dân bản tự cấy trồng, chăm sóc. Nếu bạn ghé Hà Giang vào dịp tháng 9 tháng 10 sẽ không hiếm để bắt gặp những thửa ruộng bậc thang chảy dọc triền núi, những nương lúa vàng ươm nối tiếp nhau uốn lượn mang đến cho nơi đây một vẻ đẹp đến nao lòng. Lúa ở đây đều được canh tác bằng những phương pháp rất thủ công, phải chăng vì thế mà từng hạt gạo đều giữ nguyên được chất dân dã, mùi hương mộc mạc như chính hương vị của núi rừng đại ngàn nơi địa đầu Tổ quốc. Từng hạt gạo nếp trắng ngần, bóng bẩy được chọn lựa kĩ lưỡng để bánh có được mùi vị thơm ngon nhất. Gạo được vo kĩ và ngâm qua đêm để khi luộc bánh có độ mềm dẻo, từng hạt gạo kết dính với nhau vừa đủ chặt chẽ để không quá mềm nhão, vừa đủ hòa quyện để bánh có độ dẻo ngon. Một điều thú vị nữa chắc hẳn các bạn đều thắc mắc, tại sao bánh chưng khi bóc ra lại có một màu xanh tươi đầy hấp dẫn. Bí mật nằm ở khâu chuẩn bị gạo nếp, người Tày sẽ thêm vào đó một chút nước lá riềng xay nát lọc sạch để gạo có một màu xanh tự nhiên, sau khi luộc chín bánh sẽ tỏa ra một mùi thơm nồng đượm, mùi vị đặc trưng của “Bánh chưng gù”, của núi rừng phía Bắc.
Bánh chưng Hà “Bánh chưng gù” đặc biệt như chính cái tên gọi hết sức mộc mạc và dân dã của nó. Bánh được gói bằng lá dong rừng, dáng bánh dài hình trụ và hơi khom xuống. Tưởng như ngẫu nhiên, nhưng nếu ngắm nhìn kĩ hẳn các bạn cũng nhận ra thấp thoáng đâu đó bóng dáng của những người phụ nữ vùng cao ngày ngày đeo gùi lên rẫy. Cũng như bánh chưng thông thường, bánh được luộc trong khoảng thời gian từ 8-10 tiếng để đạt được độ chín vừa vặn, lớp gạo nếp dền dẻo, đỗ xanh mịn bùi, thịt lợn thơm mềm rục. Hiện nay, để tiết kiệm công sức cũng như tiền bạc rất nhiều gia đình lựa chọn luộc bánh chưng bằng những phương pháp hiện đại hơn như dùng bếp điện. Vậy nên, hãy thử cảm nhận nếu bạn được nếm thử một miếng bánh chưng được làm ra từ những nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên, được luộc chín trên bếp củi, mỗi tấm bánh được chăm chút, gửi gắm trong đó cả tấm lòng của bà con dân tộc vùng cao. Hãy thử tưởng tượng rằng, bạn không còn phải chờ đợi tới Tết đến xuân sang mới được một lần nếm lại hương vị truyền thống, cũng không cần phải đi cả một quãng đường dài để tìm đến với món bánh đặc sản này.
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”, một lần nữa cho thấy bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong ngày tết cổ truyền của dân tộc. Với chiếc bánh chưng dẻo, thơm ngon trong những mâm cơm ngày tết đã tiếp tục khẳng định sự trường tồn, vĩnh cửa bánh chưng đối với mỗi người dân Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Bánh chưng trong ngày tết không chỉ tạo sự gần gũi, thân thuộc mà còn thể hiện sự sum họp, ấm áp tình thân.
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh XèoBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh chưng gù Hà Giang
Từ lâu bánh xèo đã trở thành loại bánh mang tính đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam và miền Trung. Hiện nay bánh xèo rất nổi tiếng ở Việt Nam và cộng đồng người Việt trên khắp thế giới.
Bánh xèo là một món ăn dân dã, ra đời ở các vùng quê từ khá lâu. Không ai biết thời gian xuất hiện và thuộc miền xứ sở nào vì từ Huế trở vào phía Nam nơi nào cũng có.
Cái tên gọi “bánh xèo” cũng làm người ta nghĩ suy “có phải rằng tiếng xèo xèo khi đổ làm nên tên gọi của chiếc bánh”. Chiếc bánh ở từng vùng cũng khác nhau về kích cỡ và cách làm nhân: bánh xèo Huế, bánh xèo Phan Thiết thường nhỏ nhưng bánh xèo Nam Bộ lại khác hẳn, to và nhiều nhân. Nhất là ai đã về miền Tây Nam Bộ thưởng thức chiếc bánh xèo giòn rụm với đủ loại rau chắc khó thể nào quên.
Bánh xèo Nam Bộ thường thì mùa nào thức nấy, ngày thường bà nội trợ hay dùng giá hoặc củ sắn thái sợi cùng thịt ba chỉ, tép bạc làm nhân. Đến mùa mưa măng mọc, nấm mối rộ trong vườn, bánh xèo được thay nhân mới bằng măng tươi thái sợi, nấm mối xào ngon tuyệt cú mèo, đến mùa nước lên điên điển đơm bông, nhân bánh lại rực một màu vàng. Ngày nay trong các nhà hàng sang trọng bánh xèo được sáng tạo nên nhiều loại nhân khác nhau: nấm kim châm, hải sản, phi lê gà…cũng hấp dẫn không kém. Với chiếc bánh xèo đầy màu sắc lẫn mùi vị đó khi ăn lại được cuốn trong các loại rau xanh và chấm với nước mắm chua ngọt, trong có để cà rốt và củ cải trắng ngâm giấm. Rau xanh đủ loại, đủ thành phần từ trong vườn, dưới ruộng và cả ven sông: đọt lụa, lá cách, lá điều, đọt xoài, đọt cóc, đinh lăng, quế nước, xà lách, cải bẹ xanh, các loại rau thơm: tía tô, quế, húng lũi, húng cây…
Ðể được cái bánh xèo cho khéo là cả một nghệ thuật. Bánh có màu đặc trưng là sắc vàng của nghệ, thêm vị béo, hương thơm của nước cốt dừa, mép ngoài của bánh mỏng và giòn. Cái để lại dấu ấn cho bữa ăn bánh xèo chính là các loại lá để ăn với bánh. Từ cái vị chát chát, chua chua của đọt xoài non, bằng lăng, đến cái mùi hăng hăng của cải xanh, diếp cá, rau thơm…
Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi.
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Xèo
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Trung ThuBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Xèo
Tết trung thu phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày tết nguyên đán.
Bánh dẻo có hai phần: phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp cái hoa vàng vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào, sai một li đi một dặm. Lúc ra quân, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lý mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân,…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này thấy người ta mới phá cách cho thêm lạp sườn vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sườn,…gọi là nhân thập cẩm. Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xay mịn, dừa sợi, hạt sen.
Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 7-8 cm, chiều dày 2,5 -3cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là 1kg. Ngoài giấy bọc có in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh trâu, song phượng,…
Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hàng năm, cứ đến gần Tết trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận mượn, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toàn làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Tết trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con 1 vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân,… bằng bánh trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Vào những năm 1989-1990, những chiếc bánh trung thu từng tham dự hội chợ quốc tế tại Đức và Bungari, gây sự chú ý đặc biệt và được tăng huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt Nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hóa của Việt Nam.
Chiếc bánh trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến mùa Tết trung thu.
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh TétBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Trung Thu
Bánh tét ngày Tết là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng ông bà tổ tiên hay trên bàn ăn của người dân đất phương Nam. Một đòn bánh tét tròn trịa, đầy đặn phản ánh khát vọng về một cuộc sống no đủ của người dân Nam bộ- cư dân của vùng đất mới.
Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao:
“Chim kêu ba tiếng ngoài sông
Mau lo lựa nếp hết đông tết về”
Mặt khác, trứng hột vịt muối- nguyên liệu chế biến thức ăn phổ biến của người Hoa có mặt trong nhân bánh tét hay sự tiếp thu từ cách làm bánh của người Khmer (bánh tét Trà Cuôn) đã phản ánh rõ nét sự giao lưu văn hóa ở vùng đất Nam bộ. Sự khác biệt trong cách làm bánh tét ở một số địa phương như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Cần Thơ thể hiện được tính thống nhất mà đa dạng của văn hóa ẩm thực. Phải chăng đó chính là những nét nghĩa văn hóa của đòn bánh tét ngày tết ở vùng đất phương Nam ấm áp và yên bình?
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Tét
Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh ChưngBài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc – Bánh Tét
Nhắc đến một yếu tố tạo nên sự phong phú và đa dạng cho sản vật Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới các loại bánh với hương vị thơm ngon và đẹp mắt, phù hợp với khẩu vị của nhiều người. Trong sự đa dạng về bánh trái, mỗi khi nhắc tới một loại bánh mang truyền thống văn hóa dân tộc, có lẽ người ta không thể nào bỏ qua được bánh chưng.
Nguyên liệu làm bánh chưng cũng vô cùng đơn giản, với những sản vật quen thuộc của người nông dân. Lá dùng để gói bánh thường sẽ là lá dong được lấy ở trên rừng. Lạt buộc bánh có nguồn gốc từ những cây tre. Gạo làm bánh thường sẽ là gạo nếp với vị thơm và dẻo đặc trưng. Ngoài ra, để làm được bánh chưng, người ta còn cần đỗ xanh và thịt lợn, thịt thường được dùng là loại thịt ba chỉ. Bên cạnh những nguyên liệu chính, thì một số gia vị quan trọng không thể thiếu làm tăng hương vị cho bánh chưng chính là một chút muối và hạt tiêu.
Là một loại bánh ngon đặc biệt của dân tộc, nên nguyên liệu làm bánh tuy giản dị, nhưng quy trình làm bánh chưng lại cầu kì hơn. Trước hết, người ta sẽ phải chọn những loại lá dong to và xanh, chiếc lá càng xanh thì màu bánh sẽ càng đẹp. Lá bánh sẽ được rửa sạch và phơi khô ráo. Gạo và đỗ trước khi làm bánh bánh sẽ được ngâm vo rửa thật kĩ và nhặt bỏ các hạt mốc. Thịt gói bánh sẽ được rửa sạch, cắt miếng to hơn thông thường và rắc hạt tiêu, muối. Người ta chọn thịt lợn ba chỉ để khi cắt chiếc bánh ra, thịt lợn đủ mềm, vẫn giữ được vị béo, thơm mà không quá ngấy. Khi gói bánh, thông thường người ta sẽ dùng 4 lớp lá xếp xen kẽ nhau. Người gói cẩn thận đổ từng lớp: một lớp gạo, một lớp đỗ, một lớp thịt rồi lại tiếp tục đổ thêm một lớp đỗ và một lớp gạo. Chiếc bánh chưng được gói khéo léo là khi nhân đỗ xanh và thịt lợn nằm vuông vắn ngay chính giữa, không bị lệch, và hạt đỗ không bị lẫn vào lớp gạo nếp ôm bên ngoài cùng của bánh. Sau khi gói, người ta sẽ cẩn thận dùng tay gói lá bên ngoài và dùng lạt cố định lại. Bánh sau khi gói xong sẽ được luộc trong một nồi qua khoảng 11 – 12 tiếng, sau đó đó vớt ra, để ráo, qua hôm sau là có thể bày lên mâm cỗ rồi.
Bánh chưng là một món bánh cổ truyền của dân tộc, có hương vị dễ ăn. Đây là món ăn luôn luôn được người dân Việt Nam sử dụng trong mâm cỗ cúng gia tiên ngày Tết. Trước đây bánh chưng chỉ có vào dịp Tết nhưng ngày nay, do nhu cầu, bánh chưng ngày nào cũng được sản xuất và bán để người dân có thể ăn hàng ngày hoặc cúng trong các ngày mùng 1 hoặc ngày rằm. Cùng với sự phát triển của xã hội, có nhiều loại bánh độc đáo mới lạ hơn được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam, nhưng bánh chưng vẫn luôn luôn giữ được vị trí quan trọng trong tiềm thức của người dân Việt Nam. Đó là một loại bánh tượng trưng cho tổ tiên, trời đất, tượng trưng cho đời sống tín ngưỡng và tâm linh của người Việt Từ ngàn đời.
Với tất cả những ý nghĩa thiêng liêng nằm sẵn trong chiếc bánh chưng dân dã, đây chắc chắn sẽ luôn là loại bánh ở vị trí cao quý, biểu trưng cho văn hóa của dân tộc (một nền văn hóa lúa nước) và cũng thể hiện tấm lòng thành kính hiếu thảo thiêng liêng của người dân Việt Nam với tổ tiên của mình
Đăng bởi: Nguyễn Văn Hùng
Từ khoá: 8 Bài văn thuyết minh về món bánh mang bản sắc văn hóa dân tộc hay nhất
Tìm Hiểu Dân Tộc Thái Ở Việt Nam Và Nét Ẩm Thực Thái
Contents
1 dân tộc Thái ở Việt Nam
người Thái là dân tộc lớn thứ 3 ở Việt Nam. Trải qua nhiều cuộc di cư và thay đổi địa bàn cư trú, hiện nay người Thái sinh sống rải rác trên nhiều tỉnh thành của nước ta. Nhưng chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Nghệ An
Tiếng Thái thuộc ngữ hệ Tày – Thái. Người Thái là một trong số ít các dân tộc có ngôn ngữ và chữ viết riêng. Nhưng ngày nay, ngày càng ít người Thái biết sử dụng. Vì vậy, ngôn ngữ người Thái dần rơi vào quên lãng.
Người thái ở việt nam
Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của người TháiHọ chủ yếu trồng lúa trên nương ở thung lũng, và trồng lúa nếp trên nương. Người dân có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tưới tiêu. Những vùng đất cao không cho nước tưới vào hoa màu, họ đã chế tạo một guồng nước để dẫn nước từ các con suối vào ruộng.
Gạo là lương thực chính, đặc biệt là gạo nếp. Ngoài ra, họ còn trồng hoa màu và nhiều loại cây khác. Các gia đình còn tập trung chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, kéo sợi bông, trồng thuốc nhuộm, nuôi tằm, dệt vải, một số nơi còn làm đồ gốm. Mọi người người Thái Với nghề dệt lâu đời, sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm. Với hoa văn độc đáo, màu sắc tươi sáng, bền đẹp.
2 Phong tục tập quán của người Thái
Người Thái chọn những vùng đất gần nguồn nước để cư trú. Làng nào cũng có hàng chục đến hơn trăm ngôi nhà. Trong hôn nhân, người Thái vẫn ăn ở với gia đình bên vợ. Vài năm sau, khi hai vợ chồng có con, họ tách ra ở riêng.
Về thế giới tâm linh, người Thái quan niệm đa thần, có tục thờ cúng tổ tiên. Do gắn bó với sản xuất nông nghiệp nên họ có tục lấy nước vào đêm giao thừa, lễ hội sấm sét và một số lễ hội cầu mùa khác. Đối với người chết, họ cho rằng người chết đang tiếp tục quan niệm “sống” ở thế giới bên kia. Vì vậy đám ma là lễ đưa người đã khuất về “thiên đình”.
Người Thái có phong tục đa dạng
Do có khả năng nói và viết, họ có một di sản văn hóa quý giá về thần thoại, truyện kể, truyền thuyết, truyện cổ và các dân tộc. Các em rất thích ca hát, đặc biệt là ca khúc “Khap” được đệm bằng nhạc cụ dây và biểu diễn múa của Việt Nam.
Các điệu múa dân gian của quan họ như “Xòe”, “Sập”, “Hàn khuông”, “Con” là sự phản ánh những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào. người Thái và biểu diễn trên các sân khấu trong và ngoài nước. Trong các lễ hội, “khèn” và “chơi nem” là hai trò chơi mang nét văn hóa đặc sắc của người Thái.
3 trang phục Thái Lan
Trang phục của người Thái luôn được ca ngợi bởi sự đơn giản nhưng vẫn làm nổi bật nét đẹp thanh tú của mỗi cô gái Thái. Trang phục của các nhóm Thái như Thái đen, Thái trắng có nhiều điểm chung nhưng vẫn mang bản sắc riêng.
Mọi người người Thái cây bông và cây nhuộm được sử dụng để làm quần áo. Sản phẩm nổi tiếng nhất của người Thái là vải gấm. Nó được thiết kế với hoa văn độc đáo, màu sắc đẹp, và chất liệu tốt. Phụ nữ Thái mặc áo chẽn, váy đen dài, đầu đội khăn thổ cẩm gọi là khăn rằn, thắt lưng xanh. Phụ nữ Thái đen mặc áo đen cổ cao trong khi phụ nữ Thái trắng mặc áo cánh trắng hình trái tim. Họ đeo vòng cổ và vòng tay bằng bạc, và hoa tai bằng bạc hoặc vàng. Đàn ông Thái mặc áo sơ mi, quần dài bằng vải thổ cẩm hoặc chàm màu xanh hoặc đen, có thắt lưng.
Trang phục của cô gái thái lan
Có hai nhóm người Thái, Thái trắng và Thái đen, được phân biệt bởi cách ăn mặc và nhà ở của họ. Theo truyền thống, người Thái đen mặc áo cánh đen với cổ cao và váy đen, trong khi người Thái trắng mặc áo sơ mi trắng có cổ hình trái tim và váy đen.
4 Tết của dân tộc Thái
Đối với người Thái nhiều vùng, họ thường coi ngày 25 tháng Chạp (theo âm lịch) là phiên chợ cuối cùng và lớn nhất trong năm. Mọi người đi chợ để sắm sửa mọi thứ cho Tết rồi thảnh thơi đón Tết.
Sáng hai mươi bảy, hai mươi tám tháng Chạp, các bô lão, trưởng bản kêu gọi mọi người tổng vệ sinh làng. Người ta bắt đầu gói Bánh Chưng từ ngày hai mươi chín.
Người Thái thường gói hai loại Bánh Chưng, đen và trắng. Để làm bánh đen, người ta đốt rơm rạ, lấy tro trong, trộn với gạo nếp, vo sạch gạo nếp nhưng giữ nguyên màu đen. Nhiều nơi, người ta không cho thêm thịt, hành, mỡ vào bánh. Bởi người ta tin rằng hương vị Tết của Bánh Chưng chủ yếu thể hiện ở hương lá dong và đó là thành tố chính của trời đất ban tặng. với tổ tiên.
Tết của dân tộc Thái
Sáng ba mươi Tết, người ta bắt đầu luộc bánh Chưng và thịt lợn. Đêm giao thừa là bữa cơm cuối cùng trong năm có sự góp mặt của người thân, bạn bè và những người nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng. Vào đêm giao thừa, người Thái thắp hương suốt đêm. Sau khi cúng giao thừa với cá, thịt, bánh, thổ cẩm, đồ bạc…, gia đình nào có cồng chiêng cũng cùng nhau đánh chiêng, múa hát.
Trong bữa cơm ngày Tết của người Thái không thể thiếu một món ăn không thể thiếu đó là cá nướng, gà xé phay muối hoặc khô nước, …
5 Lễ hội Hoa Ban của người Thái Tây Bắc
Lễ hội Xên Mường thường được tổ chức vào tháng 2 âm lịch, đây là mùa hoa ban nở rộ nên người dân gọi là Lễ hội Hoa Ban. Đây là dịp để người dân Thái Lan thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ những người đã khuất. Đồng thời trong lễ hội, mọi người cũng cầu mong những điều tốt lành trong năm mới, mưa thuận gió hòa.
Lễ hội hoa Ban
Tại lễ hội, những người tham dự mặc trang phục truyền thống của người Thái, họ đã nhảy và hát các bài hát Thái. Không khí buổi lễ ngập tràn tiếng kèn, tiếng trống, người tham dự chen chúc nhau rất nhộn nhịp.
Lễ hội Hoa Ban cũng là một trong những lý do mà du khách thường đến miền Bắc du lịch trong dịp năm mới.
6 món ăn dân tộc thái
6.1 Cá nướng
Ẩm thực người Thái Black nổi tiếng với các món nướng, đặc biệt là cá và thịt lợn. Cá nướng gói trong lá chuối với các loại rau thơm và gia vị. Cá được làm sạch và ướp với ớt, tiêu rừng và các loại gia vị khác. Các gia vị bổ sung bao gồm lá tỏi, gừng và hạt tiêu dại. Tất cả được gói trong lá chuối trước khi nướng.
Cá nướng
6.2 Mì
Nguyên liệu của công thức nậm pịa là máu và nội tạng, đặc biệt là ruột non của động vật ăn cỏ. Phần ruột non được chọn kỹ sau đó cắt thành từng miếng nhỏ. Trộn với các loại rau thơm, ma nip (một loại tiêu rừng), rau mùi, ớt và tỏi. Tất cả băm nhuyễn, đun sôi trong 1 giờ.
Mì sợi
Nậm pịa có mùi khó chịu và màu sắc kém hấp dẫn. Khi ăn thử thìa đầu tiên, bạn sẽ cảm nhận được vị đắng. Đến muỗng thứ hai và thứ ba sẽ là hương thơm của mac Khen. Vị ngọt của thịt, vị đắng của “bánh pía”. Nậm pịa ngon nhất khi ăn cùng với bạc hà, thịt luộc và một chút rượu.
6.3 Bánh kếp của người Thái
Bánh tẻ được làm từ phần thịt củ sắn, được xay nhỏ, nấu chín và tán mịn để cuốn. Sau đó người ta đem những miếng sắn đó đi phơi nắng cho khô. Sau đó cắt thành những miếng bánh nhỏ với nhiều kích thước và hình dạng khác nhau.
Để bánh có màu, người làm bánh trộn sắn với các nguyên liệu tạo màu tự nhiên. Ví dụ, để bánh có màu cam thì trộn xôi gấc, khi xôi có màu tím thì trộn nếp với gạo xanh. Khi ăn bánh chỉ cần rán vàng đều đến khi bánh phồng lên là được.
Bánh xèo
6.4 Nộm da trâu
Đặc sản của người Thái phải kể đến món nộm da. Vì da trâu khá dày và cứng nên người ta dùng để chế biến các món ăn từ da trâu. Sau đó phải đun quá nóng và ngâm trong nước lạnh để làm mềm da trong hơn 1 giờ tùy theo từng miếng da. Sau đó đem da trâu đi luộc chín rồi xắt mỏng thành sợi. Da trâu được thái càng mỏng thì da càng giòn và trộn nộm càng ngon.
Gỏi da trâu
6.5 Nước chấm đặc biệt của người dân tộc Thái
Mỗi dân tộc sẽ có một loại nước chấm riêng do đặc trưng văn hóa ẩm thực của từng vùng miền. Đến người Thái Đến Sơn La, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức món tương. Để làm nước sốt này, đậu nành được phơi khô và làm sạch. Sau đó, đậu nành bóc vỏ, luộc chín mềm rồi để nguội.
Người Thái dùng lá chuối tươi hái tại vườn, lau sạch để gói đậu tương. Gói đậu nành thật kín rồi để trên gác bếp hoặc nơi khô ráo để đậu lên men tự nhiên và có hương vị đặc trưng.
Nước tương
Sau khi đậu nành lên men và có thể ăn được, người ta đem đi giã. Thêm một ít tỏi, ớt, sả và nêm nếm lại gia vị cho vừa ăn. Nước tương chấm có thể ăn với thịt heo, bò, tôm luộc.
6.6 Xôi ngũ sắc
Nhắc đến xôi không thể thiếu món xôi ngũ sắc truyền thống của dân tộc Thái. Tuy là món ăn dân dã nhưng không dễ làm. Món xôi ngũ sắc ngon, dẻo sẽ thể hiện sự khéo léo của người phụ nữ người Thái. Xôi 5 màu ngon được làm từ gạo xanh, gạo tím, gạo đỏ hoặc gấc, màu vàng của nghệ và gạo nếp trắng.
Xôi ngũ sắc
Gạo nếp được chọn từ những hạt tròn, mẩy, khi nấu lên, gạo nếp dẻo và thơm. Để làm xôi ngũ sắc, phụ nữ Thái trộn gạo nếp với nước của các nguyên liệu trên. Ngâm lâu cho ngấm đều màu rồi mới đem đi nấu.
Xôi ngũ sắc ngon là xôi dẻo, thơm, không dính tay và có màu sắc bắt mắt. Đây là món ăn mà người Thái thường làm vào các dịp lễ, tết, đãi khách đến nhà.
người Thái là một trong những dân tộc có nhiều màu sắc. Từ những bộ trang phục truyền thống cho đến những lễ hội đậm đà bản sắc Thái. Bên cạnh đó là những món ngon độc đáo khó quên.
Đăng bởi: Thảo Uyên
Từ khoá: Tìm Hiểu Dân Tộc Thái Ở Việt Nam Và Nét Ẩm Thực Thái
Cập nhật thông tin chi tiết về Sao Phải Đi Đâu Xa, Chỉ Cần Đến Làng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Là Có Ngay Bộ Ảnh Tuyệt Đẹp trên website Xqai.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!